Mục Lục
Mõ có 2 loại:
1/.Loại hình con cá thẳng dài treo ở nhà kho, nhà ăn đến lúc dùng cơm cháo gõ nó để báo hiệu.
2/. Loại hình con cá có vảy cuộn tròn, khi tụng kinh thì đại chúng Tăng Ni gõ lên mình nó.
Theo sách Tham Thiên đài Ngũ Ðài Sơn ký (quyển 3, Tống Thần Tông Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng 8 tháng tám) ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Ðại sĩ, vị Trưởng lão viện chủ đánh mõ chiêu tập các vị tu hành, vị ấy chính là ngài Phó Ðại sĩ… Thời đó, ngài muốn gặp các vị tu đầu đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị nghe xong tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều dùng mõ để tập hợp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa môn Chí Lâm đời Ðường tạo ra, nhưng do sự hạn chế của sử liệu chứng minh, điều này khó thuyết phục mọi người. Ngoài ra, sách Tăng tu giáo uyển thanh quy (quyển hạ, phần Pháp khí) ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản thầy, hủy pháp mà bị đọa làm thân con cá, trên lưng nó lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng gió thổi đến, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, thầy bổn sư qua biển, nhân đó nó muốn gây nợ liền nói rằng thầy không dạy để nó phải mang chịu làm thân cá thế này, do đó nên nay nó muốn báo oán. Thầy hỏi nó tên gì, liền được trả lời tên là Mỗ Giáp… Thế rồi, Thầy bảo sám hối cùng vì nó bạt độ. Ngay đêm ấy nó thoát thân cá, đồng thời đem cây ấy bỏ trong chùa, Thầy lấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh thức đại chúng.
Loại mõ tròn mà ngày nay dùng có thể là sản vật có từ đời Minh (Trung Quốc). Theo sách Tam tài đồ hội của tác giả Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó”. Theo sách Thích thị yếu lãm, chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ, cái thớt đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ đó mà đại chúng được tập hợp, nên các loại đó đều gọi là kiền chùy. Sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy chương Pháp khí nói khi dùng cơm, khi phổ thỉnh Tăng chúng… đều gõ nó. Từ đây có thể hiểu lúc đầu mõ dài được dùng để tập họp Tăng chúng. Nhưng vì sao cả hai loại mõ đều lấy hình dáng con cá? Sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy nói rằng tương truyền loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ vào nó nhắc nhở mình tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi. Lại nữa, tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng lúc tụng kinh được nhịp nhàng.
Bài khai mõ nhỏ:
Mộc ngư cao hứng đả tam thinh
Văn pháp Như Lai hộ hộ kinh
Tam chuyển động am thông tam giới
Quán bất quán bồ đề tối thượng tâm
An Yết Ðế, Yết Ðế Ta Bà Ha
Bài khai mõ lớn:
Gia trì mật niệm tẩy trần tâm
Một ngư khuyết hướng chuyển tam luân
Thánh chúng lục hòa kim bối diệp
Tứ sanh cửu hữu tận triêm ân
Án Phạ Nhựt Ra Da, Tá Ha (Kinh Nhựt tụng – niệm Phật)
Vài ý tưởng khác:
Thời xưa, không những Trung Quốc mà Ấn Ðộ và một số nước khác cũng đã sử dụng chuông, trống… Tại Ấn Ðộ dùng chuông, trống để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập hợp chúng Tăng bố tát, nghe pháp… Do đó luật Ngũ Phần ghi: “Chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập, Phật ngôn: nhược đả kiền chùy, nhược đả cổ…”. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời đất. Ấn Ðộ đã biết sử dụng chuông trên hai ngàn năm về trước. Có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo được tìm thấy trên các bức phù điêu tại các trụ đá của vua A Dục và các tháp tôn trí xá lợi Ðức Phật. Không riêng tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn từ nền văn hóa Ấn Ðộ như Tích lan, Miến điện, Thái lan cũng sử dụng chuông và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ.
Trong các dịp tưởng niệm Ðức Phật, các chuông được sử dụng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính Ðức Phật. Tác phẩm Saddharmlankra (một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Sri Lanka) ghi rằng: chuông được sử dụng đầu tiên ở Sri Lanka vào những dịp đặc biệt như triệu tập Tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường Ðức Phật.
Tín đồ Phật Giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi khổ đau của cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả chuông lăn lớn để tín đồ quay.
Dĩ nhiên, các loại chuông trống ở Ấn Ðộ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt Nam. Trung Quốc thuở xưa, trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp đường.
Chốn thiền môn thường có câu:
“Chuông thức tĩnh đưa người về bến giác,
Mõ giác lòng thôi bỏ mộng nam kha”.
Chuông trống từ thời xưa đã được dùng trong lễ hội cung đình và giữ vai trò trọng yếu trong âm nhạc. Qua đây, nó là một trong những loại công cụ nhạc khí dùng để diễn đạt, giao lưu tư tưởng, tình cảm, dùng trong chiến đấu, cúng tế, trong lĩnh vực tôn giáo v.v… Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Ðức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng, làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau đó, tiến thêm bước nữa, phối hợp tiếng chuông, trống, mõ, hòa cùng những lời tán tụng để trợ giúp đại chúng trong việc tu học, làm Phật sự lợi lạc quần sanh, hướng họ đến bến bờ giác ngộ
Chuông, trống mõ, kiền chùy… là pháp khí nhà Phật (nghi lễ của nhà Phật), cũng là pháp khí Phật sự không thể thiếu trong chốn thiền môn. Làm Tăng Ni, không ai có thể không biết các Phật sự trên, một đời tu hành và làm Phật sự mà không biết ý nghĩa pháp khí ấy thì thật là mất nhân duyên Phật Pháp. Vì các pháp khí đó luôn luôn gần gũi với chúng ta. Chư Tăng Ni Liên Tông Tịnh Ðộ Non Bồng cần học hỏi để vừa hiểu biết, vừa để dành sự hiểu biết đó mà sử dụng và truyền đạt cho mọi người sau chúng ta trong tương lai.
Bài khai chuỗi tràng (108 hột) :
Âm :
Thủ trì nhứt bá bát
Diệt tội đẳng hà sa
Viễn ly tam đồ khổ
Xuất sắc biến liên hoa
Nghĩa :
Tay cầm trăm tám bồ đề
Tiêu mòn các tội đặng về Tây phương
Khỏi nơi chốn khổ ba đường
Thoát ra liền thấy bửu tòa liên hoa.
An Phệ Lô Giá Na, Ma Lạ, Ma Lạ, Ta Bà Ha (đọc 7 lần)
Bài khai chuỗi (18 hột)
Bài 1 :
Diệu quả bồ đề ly chưởng chưởng
Thủ khai thiên tỏa vạn trùng trùng
Thập bát chuyển luân Lá Hán tướng
Thiên quan giáng phước hiện vô cùng
Nam Mô Ðịnh Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Hát
Bài 2 :
Vận chuyển càn khôn tóm một xâu
Ba ngàn thế giới trọn tay thâu
Bồ đề mười tám thiền tâm định
Sáu chữ Di Ðà báu tợ châu
Nam Mô Ðịnh Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Hát
Bài 3 :
Cúi đầu đảnh lễ Phật phương Tây
Ðạo sư tiếp dẫn chúng sanh nầy
Con nay phát nguyện về Lạc quốc
Xin Phật thương con độ vãng sanh
Nam mô tây phương cực lạc thế giới đại từ Ðại bi đại nguyện đại lực tiếp dẫn đạo sư A Di đà Phật. (Kinh Nhựt Tụng Thích Thiện Huê)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.