Mục Lục
Trí tuệ là gì ?
“Trí” phiên âm chữ phạn là Prãna; “Tuệ” phiên âm chữ Phạn là Bát nhã. “Trí” có nghĩa là quyết đoán; “Tuệ” có nghĩa là giản trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: “Trí là biết Tục đế và Tuệ là thông hiểu Chân đế”.
Cũng có thể nói :
Trí là thể tách sáng suốt trong sạch, Tuệ là cái diệu dụng xét soi tự tại. Trí tuệ Ba la mật là thể tách sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh tường đến nơi đến chốn, không thể sai lầm được.
Các Loại Trí Tuệ
Theo triết học Phật Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ lượng.
1. Hiện lượng : Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy luận. Hiện lượng lại chia làm hai :
Chân hiện lượng, là nhận thức trực tiếp mà đúng.
Tợ hiện lượng, Là nhận thức trực tiếp mà sai
2. Tỷ lượng : Là sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có hai thứ:
Chân tỷ lượng, là lối hiểu biết bằng suy luận đúng đắn.
Tợ tỷ lượng, là lối hiểu biết mà suy luận mà sai lầm.
Hiện lượng của địa vị phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ lượng của địa vị phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần nhiều là tợ tỷ lượng. Đứng về phương diện tính chất, đạo Phật chia trí tuệ ra làm hai loại lớn là “Căn bản trí” và “Hậu đắc trí”.
1. Căn bản trí : Giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn, nhưng vì bị phiền não che lấp, nên chưa phát chiếu ra được. Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim khí quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng thái khoáng chất lẫn lộn với đá (phiền não vô minh)
2. Hậu đắc trí: Trí tuệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định… Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất và không còn lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh).
Theo Duy thức học, sau khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được “Hậu đắc trí”, thì tám thức chuyển thành bốn trí:
Thức thứ tám, A-lại-da có tác dụng là chấp trì sanh mạng và chủng tử, được đạt đến địa vị vô lậu và biến thành “Đại viên cảnh trí”.
Thức thứ bảy, Mạt-na có tác dụng là chấp ngã, biến thành “Bình đẳng tánh trí”.
Thức thứ sáu, Ý thức có tác dụng là phân biệt, biến thành “Diệu quan sát trí”.
Năm thức cuối (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành “Thành sở tác trí”.
Công năng của Trí tuệ
Trí tuệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ (tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Chúng ta có thể nêu lên ba công năng chính của trí tuệ như sau:
1. Dứt trừ phiền não : Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí tuệ đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không còn phát sinh nữa.
2. Chiếu sáng sự vật : Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí tuệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương tất phải tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày như thật.
3. Thể nhập chân lý : Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí tuệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các đệ tử phải trao dồi trí tuệ như sau: “Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn chiếu sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho trí tuệ mình”. (Kinh Di Giáo).
Tóm lại, Đạo Phật là đạo từ bi, mà cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác ngộ thuộc về tuệ. Phước và Tuệ là giúp hành giả thẳng đến bờ giải thoát. Do đó, trong kinh thường nói: “Phước, Tuệ song tu mới thành ngôi Chánh giác”. Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục thuộc về tu phước; thiền định và trí tuệ thuộc về tu tuệ; còn trì giới và tinh tấn là hai chất liệu có công dụng kiểm soát và đốc thúc cho việc tu phước và tuệ được thành tựu hoàn toàn.
Bố thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí tuệ thuộc về Trí, còn trì giới và tinh tấn thuộc về Dũng. Một Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi, Trí, Dũng mới mong đi đến bờ giác ngộ một cách thông suốt và nhanh chóng.
Mô Phật! Chúng con nghe Sư giảng giải về Lục Độ Ba La Mật thật rõ, chúng con xin học tập và học thuộc lòng, để áp dụng tu tập hằng ngày, nối chí quý Sư!
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.