Mục Lục
Vấn: chúng con được quý Sư dạy tụng thần chú Chuẩn Ðề, thần chú có làm trở ngại đến pháp tu Tịnh độ không, lợi ích của thần chú Chuẩn đề?
Ðáp: Thần chú Phật Mẫu Chuẩn Ðề có hai phần: một là bài kệ tán thán Chuẩn đề Phật Mẫu của tổ sư Long thọ, hai là thần chú Phật Mẫu Chuẩn đề.
Là ngừời tu theo pháp niệm Phật từ năm 1955 đến nay, pháp tu của Sư có truyền thống tu cư gia từ năm 1930 do Bà Nội hướng dẫn tu hành. Quá trình niệm Phật, Sư còn được cụ thân sinh dạy trì tụng thần chú Vãng sanh, thần chú Chuẩn Ðề, Thất Phật Diệt tội chơn ngôn. Mỗi đêm theo thời khóa lễ tũng kinh cứu khổ, niệm Phật, tụng 21 biến Vãng sanh, 9 biến thần chú Chuẩn Ðề. Cụ thân sinh thường nói:”tụnh thần chú Chuẩn Ðề quỷ ma không quấy nhiễu, ám hại. Thật vậy, thuở nhỏ bản thân sợ ma, khi mọi người lên nhà trên, một mình Sư không dám xuống nhà dưới; khi mọi người xuống nhà dưới thì một mình Sư không dám lên nhà trên…nhưng khi tụng thần chú Chuẩn Ðề tâm tính cảm nhận không còn “ma cỏ” gì nữa. Sự việc sau nầy khi xuất gia đầu Phật, làm “Ông Sư” mới biết lực của thần chú Chuẩn Ðề là oai linh huyền diệu. Cho đến giờ nầy cầm viết, nói về lợi ích, lực của thần chú Chuẩn Ðề cũng tin như thế, nhưng có phần hiểu xuyên suốt sâu xa hơn:”tụng thần chú Chuẩn Ðề Phật Mẫu để giải vây những “hình ma bóng uế” xung quanh mình không còn nữa, không còn âm ma nào đến quấy nhiễu người tu; đồng thời thần chú còn có công năng hóa giải những nghiệp chướng trần lao phiền não từ nội tâm, nên quyết tâm trì niệm thì tam nghiệp thanh tịnh, giải thóat luân hồi, hóa giải nghiệp lực, chuyển nghiệp xấu lần đến chổ hết xấu còn lại tốt, đạo hạnh oai phong…”
Năm 1961, sau khi xuất gia được một năm, Sư là chú tiểu được Trưởng lão Huệ Thông là vị Duy na của đạo tràng Tổ đình Linh Sơn chỉ dạy kết ấn Chuẩn Ðề nội, như sau:
“Trước nhất chúng ta có: hai ngón tay giữa áp vào nhau; hai ngón tay áp chéo vào nhau; hai ngón tay út áp vào nhau, hai ngón tay trỏ chéo phía sau hai ngón áp, còn lại hai ngón tay cái xếp úp vào hai ngón tay giữa…gọi là kết ấn “Chuẩn Ðề ngọai”; còn kết ấn “Chuẩn Ðề nội” thì ấn khuyết vẫn như trên, nhưng hai ngón tay út khép kín vào nhau, gọi chung là “kết ấn Chuẩn Ðề”.
Theo Tạp chí Từ Bi Âm, trang 69, tái bản năm Kỷ dậu, Phật lịch 2513, dương lịch 1969, Giáo hội Linh sơn Phật hội ấn hành, in tại nhà in Sen Trắng, đường Cô Giang thì Phật Mẫu Chuẩn Ðề (trích ở kinh Chuẩn đề nơi hàm chư Mạc trong đại tạng) còn có một hiệu khác là Thất Câu Chi Phật Mẫu, hiện nay ngài đang thuyết kinh Ðà La Ni, nguyện cầu cho tất cả trong thế gian và xuất thế gian đều thành tựu sự nghiệp an ổn tu hành. Vì tấm lòng từ bi vô hạn của ngài với chúng sanh như mẹ thương yêu đám con khờ, nên kêu là Phật mẫu. Ngài thường giáo hóa:”chơn như thiệt tướng và tánh chơn thường của tất cả chúng sanh xưa nay đều sẳn có trong bản giác chư Phật vậy, nên trong đó gồm đủ các đức dụng khắp cõi hà sa. Nhưng ngặt vì nổi chúng sanh hay hủy báng chánh pháp, chẳng tin lời Phật, tự mình làm tổn cho mình, nên phải trầm luân đọa lạc, dù có cả ngàn vị Phật ra đời cũng khó mà cứu chữa đặng. Do đó ngài phát nguyện lập pháp môn phương tiện mà điều phục các việc trần cấu của người sơ cơ nhập đạo, và muốn đồng với chư Phật một nguồn giác, để dứt chổ “vọng” mà quy về nơi “chơn”.
Năm 1962, Sư được dự vào Tăng đòan Khất sĩ Non bồng, thọ Sa di giới tại Trường Sanh Phật Tự, Mỹ tho, Tiền giang rồi cùng với chư Tăng đăng sơn an trú tại Quan Âm Phật Tự. Lúc bấy giờ ở chung với Sư Giác Hà, Sư Giác Cải, ba người ở chung một cốc; về sau chỉ còn hai người lý do Sư Giác Cải về quê tại Quảng nam lâm nạn viên tịch do chiến tranh Việt Mỹ gây ra. Còn lại Sư và Sư Giác Hà cùng tu tập, hằng ngày Sư công phu hai thời khóa: một thời công phu khuya tụng Lăng Nghiêm, 4 giờ sáng, thời công phu tối tụng Tịnh độ 19 giờ và thời niệm Phật vào lúc 23 giờ. Sau thời niệm Phật là giờ Tý (24 giờ), thì ngồi tụng thần chú Chuẩn Ðề Phật Mẩu cho đến 0 giờ mới nghỉ. Riêng Sư Hà thì ngồi thiền niệm, cũng có chương trình tu mỗi ngày ba thời, ngày thì học Luật tứ phần, Tỳ ni, Sa di, Oai nghi theo Luật Khất sĩ để chuẩn bị thọ Tỳ kheo giới. Sư Hà ngày nay cũng đã là Hòa Thượng từ năm 2007, hiện Sư là Trưởng giáo đòan Năm, hệ phái Khất sĩ, Tịnh xá Trung Tâm ở Phú lâm.
Thời khóa tụng thần chú Chuẩn Ðề chỉ có một thời, nhưng mỗi thời niệm, không tính theo tràng hạt, mà tính bằng giờ, tụng niệm đúng 60 phút thì nghỉ. Trong lúc tụng chú, hai bàn tay kết ấn Chuẩn Ðề Phật Mẫu, ngồi bán già thẳng lưng, có khi ngồi kiết già vẫn được, đèn lưu ly trên bàn Phật, bàn viết, bàn học đều tắt chỉ còn lại đốm nhang đang cháy là đủ. Do sự sách tấn của quý Trưởng lão tại đạo tràng Tây phương Bồng đão, Sư thực hành khóa tu được hai năm, từ năm 1962 đến năm 1963 thì chiến tranh ập đến; năm 1964 chư Tăng Ni đều phải tản cư khỏi núi non.
Chỉ có hai năm trì niệm thần chú Chuẩn Ðề, nhưng trước khi tụng quán chiếu bửu tượng đầy vẽ uy nghiêm oai vệ, mặt này tướng hảo quang minh, ngài ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, tiếp đến quán chiếu vòng cổ có đeo chuổi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ “vạn”. Hai cườm tay có đeo hai chiếc vòng bằng ốc trắng, hai bên cánh tay trỏ có đeo xuyến thất châu xem rất xinh lịch, hai trái tai có đeo ngọc bửu dương, trên đầu thì đội hoa quang, trên mão có hóa hiện ra năm đức Như Lai và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ…quán tượng cho đến khi thuần thục rồi về đêm ngồi một mình vừa quán tưởng thánh tượng vừa trì niệm thần chú.
Nếu là trì tụng, thì tụng bài:
I . Phật mẫu Chuẩn Ðề thần chú
Khể thủ quy y Tô tất đế
Ðầu diện đảnh lễ Thất câu chi
Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ
II . Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề, câu chi nẩm, đát điệt tha
Án chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Ðề ta bà ha
Nếu là trì niệm:
I . Khể thủ quy y Tô tất đế
Ðầu diện đảnh lễ Thất câu chi
Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ
II . Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề, câu chi nẩm, đát điệt tha
Án chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Ðề ta bà ha
Ý nghĩa:
Âm: Khể thủ quy y Tô tất đế
Nghĩa: Cúi đầu lạy pháp Tố tất đế (ngôi Pháp)
Âm: Ðầu diện đảnh lễ thất câu chi
Nghĩa: Chân thành đảnh lễ bảy ức Phật (ngôi Phật)
Âm: Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề
Nghĩa: Con nay ca ngợi đức Ðại Chuẩn Ðề (ngôi Tăng)
Âm: Duy nguyện từ bi thùy gia hộ
Nghĩa: Xin duổi lòng từ bi gia hộ
Bốn câu chữ trên là của đức Long Thọ Bồ tát làm bài kệ để đọc mở đầu tụng thần chú nầy, tức là bài chú nầy được Ðức Phật Thích ca vì lòng từ thương tưởng chúng sanh nên nhập vào đại định “Chuẩn đề tâm muội” tại vườn cây của hai ông Kỳ đà, Tu Ðạt, lúc bấy giờ có đủ bát bộ chư thiên đi nhiễu đức Thế Tôn, cho đến một trăm năm sau, tổ sư Long Thọ phát nguyện xưng tán trì tụng.
Theo sách Nhị khóa hiệp giải, trang 85,86 của Ðức Pháp chủ Khánh Anh giảng giải như sau:
Su si dhi dịch ra chữ nho đọc là Tô tất địa, tô tất đế đọc cho đủ là tô tất địa pháp, một trong ba pháp lớn của ba bộ Chơn ngôn tông. Tô tất đế dịch là Thiện viên thành, Diệu thành tựu. Nghĩa là pháp tu nầy rất mầu nhiệm, vì hay khéo trọn, mãn được lòng nguyện và cũng có thể khéo nên, trong nghĩa lý thế gian và xuất thế gian.
Chân thành đảnh lễ là ngài Long Thọ đảnh lễ bảy trăm ức Phật đã từng nói thần chú Chuẩn Ðề Phật Mẫu.
Candi (Chuẩn Ðề) hoặc đọc là Tôn Na, Tôn Di, dịch nghĩa “Ra Làm”, ý nói: lòng nguyện rộng lớn, dùng đại trí để dứt vọng hoặc, vì đủ các nhân hạnh làm lợi lạc cho chúng sanh. Lại còn dịch là thành thục, nghĩa là từ nơi Pháp Không, quán tưởng Pháp Giả, để thành tựu cảnh trí tịch diệt.
Duy nguyện là ý nghiệp, Ðầu diện đảnh là thân nghiệp, xưng tán là khẩu nghiệp. Nghĩa là người trì tụng thần chú nầy, đem tòan lực cả ba nghiệp thân khẩu ý, đồng thời tương ưng nhau, làm cho tâm thanh tịnh, trí và nguyện tương ưng nhau với trí nguyện của các bậc thánh, tâm từ bi của Phật mẫu Chuẩn Ðề trọn thâu gồm thân tâm của chúng sanh, nên gọi là thùy gia hộ, cúi xin Phật mẫu Chuẩn Ðề giũ lòng từ bi cứu giúp chúng sanh và chúng con.
Mẫu: là mẹ, Pháp là thầy học của chư Phật, thật-trí là Mẹ, quyền trí là cha của chư Phật; xin đảnh lễ Thất Câu Chi Phật tức là nguyện học giáo pháp “Chuẩn đề tam muội” cầu chứng quả bồ đề. Chúng sanh thọ trì thần chú Phật mẫu (Pháp) chứng đắc tam muội tức quả vị Phật (Phật); vì Pháp kết thành quả Phật, nên gọi Phật mẫu (Nhị khóa hiệp giải, trang 86, HT Thích Khánh Anh biên dịch,GHTGNV xuất bản).
Do các ý nghĩa trên, chư liên hữu trì tụng thần chú Chuẩn Ðề Phật Mẫu không bị trở ngại trên đường tu Tịnh độ.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.