Mục Lục
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôi lại thấy những vị Bồ Tát, sau khi Phật diệt độ rồi, cúng dường xá lợicủa Phật. Cúng dường xá lợi cũng đồng như cúng dường Tam Bảo, đồng như cúng dường Phật không khác. Nhưng phải dùng chân tâm, chứ chẳng phải dùng tâm ô nhiễm để cúng dường. Tâm mà có sở cầu, có sự mong muốn thì tâm chẳng được thanh tịnh. Hãy coi sự cúng dường bố thí là trọng trách của mình, đó gọi là báo ân Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Nếu chẳng có Tam Bảo thành trì chánh pháp tồn tại, thì ma vương sẽ hiện ra đời, tức cũng là ngày thế giới hủy diệt. Do đó, mỗi ngày trước khi ăn cơm hãy quán như thế nầy, nếu chẳng cúng dường Tam Bảo thì cơm ăn khó tiêu. Nói là pháp, tu là đạo, nên phước huệ song tu. Bây giờ chẳng cúng dường Tam Bảo, tương lai thành A La Hán rồi, cũng ôm bát không, chẳng có ai cúng dường. Cúng dường Tam Bảo là tu phước, ấn tống Kinh điển, tuyên dươngPhật pháp là tu huệ.Lại thấy có Phật tử tạo vô số chùa tháp nhiều như số cát sông Hằng nghiêm sức khắp cõi nước. Tháp để cúng dường xá lợi, chùa cúng dường tượng Phật.
Có câu chuyện nầy quan hệ tới bảo tháp : Khi Đức Phật còn tại thế, thì có một người tướng rất quái dị. Một số người cao khoảng hơn năm thước, vai thì rộng hai thước, nhưng ông ta thì ngược lại, thân cao hai thước rưỡi, mà vai rộng năm thước. Tuy ông ta thân hình quái dị như cái nồi đen, nhưng lại có giọng ca tiếng trong trẻo như tiếng khánh, tiếng đại hồng chung. Do người nầy quả báo đặc thù, đưa đến đồ chúng nghi hoặc mà thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật bèn cười nói : người nầy trong quá khứ vô lượng kiếp về trước, đã từng làm đệ tử của Phật, thấy người muốn tạo bảo tháp cao đẹp, nên tâm có ý ghen mà phê bình nói : "Hà tất phải làm cao như thế ! Cao quá thì đỉnh tháp đâu có thấy được ! Bất quá, tôi có cái chuông nhỏ (cái linh) treo ở đỉnh tháp, thì tôi bố thí cái đó !" Chỉ vì tâm có ác ý nói một câu : "Đừng làm cao quá..." Do đó, ông ta đời đời kiếp kiếp đều cao chẳng quá ba thước. Nhưng vì ông ta có tâm thiện bố thí cái linh, cho nên được quả báo âm thanh như đại hồng chung. Do đó phiền não chỉ vì nói nhiều những lời vô ích.
Muốn biết đời trước mình làm gì, hãy xem đời nầy mình có được những gì, muốn biết đời sau ra sao, hãy xem đời nầy mình làm những gì. Trồng nhân gì thì kết quả đó. Nếu phát được đại bồ đề tâm, tu bố thí công đức, thì tương lai phước đức cũng vô lượng vô biên.
Tạo dựng bảo tháp cao đẹp trang nghiêm cõi nước, mỗi bảo tháp treo ngàn tràng báu phan báu, dùng châu làm màng lưới bảo tháp. Gió thổi động linh báu vang ra âm thanh hoà nhã vi diệu, đều là đồ trang nghiêm cúng Phật tối thắng. Các vị trời, rồng, thần, người, chẳng phải người, thường mang hương hoaâm nhạc đến cúng dường.
Ngài Văn Thù Sư Lợi !
Các vị Phật tử kia
Vì cúng dường xá lợi
Trang nghiêm đẹp chùa tháp.
Khắp cõi nước tự nhiên
Đẹp đẽ tốt lạ thường
Như cây Thiên thụ vương
Hoa nở khắp hết thảy.
Phật phóng luồng hào quang
Tôi và cả chúng hội
Thấy khắp cõi nước đó
Đủ thứ sự thù diệu.
Sức thần thông chư Phật
Trí huệ rất hi hữu
Phóng một luồng tịnh quang
Chiếu khắp vô lượng cõi.
Chúng ta thấy như vậy
Thật là chưa từng có
Mong Phật tử Văn Thù
Giải quyết nghi của chúng.
Bốn chúng đều trông mong
Nhìn Ngài và nhìn tôi
Thế Tôn vì cớ gì ?
Phóng luồng quang minh nầy !
Phật tử hãy giải đáp
Dứt nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì ?
Về việc quang minh đó !
Phật ngồi tại đạo tràng
Đắc được pháp thâm diệu
Vì muốn nói pháp đó
Hay là sẽ thọ ký !
Hiện bày các cõi Phật
Các báu đều nghiêm tịnh
Và thấy các đức Phật
Đây chẳng phải duyên nhỏ.
Ngài Văn Thù nên biết !
Bốn chúng trời, rồng, thần
Thảy đều nhìn trông Ngài
Vì sẽ nói những gì ?
Ngài Bồ Tát Văn Thù, các vị Phật tử kia tạo chùa tháp để cúng dường xá lợi và tượng Phật, trang nghiêm xứ sở, khiến cho cảnh giới đẹp của nước nầy, tự nhiên trở thành thù thắng tốt đẹp. Cây Thiên thụ vương tức là cây Ba Lợi Chất Đa, mọc ở trong vườn của trời Đế Thích, nhánh lá che khắp năm mươi do tuần. Đây là dụ cho sự nghiêm sức tháp chùa, như hoa của cây nầy nở.
Đức Phật phóng ra luồng hào quang trắng, khiến cho chúng ta thấy được trí huệ và thần thông hi hữucủa chư Phật, trong một vạn tám ngàn cõi. Cảnh giới thù thắng nầy, thật là ít thấy, do đó chắc có nhân duyên lớn, cho nên Đức Phật thị hiện tướng điềm tốt nầy, là muốn vì đại chúng nói diệu pháp vô thượng, hay là vì đại chúng thọ ký bồ đề ? Tôi và bốn chúng : Thiên Long bát bộ .v.v., đều mong cầu Bồ Tát Văn Thù vì chúng tôi mà giải trừ lòng nghi ngờ. Đại chúng đều nhìn Ngài và nhìn tôi đều muốn biết Phật sẽ nói những gì ?
Bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với đại Bồ Tát Di Lặc và các Đại sĩ. Các thiện nam tử ! Theo sự nghĩ của tôi, nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn nói pháp nghĩa lớn.
Các thiện nam tử ! Tôi ở chỗ chư Phật trong quá khứ, đã từng thấy điềm lành nầy, sau khi đức Phật phóng quang minh rồi sẽ nói pháp lớn.
Đương lúc đó, Bồ Tát Văn Thù nghe lời nầy xong, thì vì Bồ Tát Di Lặc và các đại chúng nói : Theo Kinh nghiệm của tôi trong quá khứ, phàm là Phật phóng thứ quang minh nầy, tức sẽ nói pháp đại thừa, như mưa lớn thấm nhuần chúng sinh, thổi pháp loa lớn, để hiệu triệu tất cả chúng sinh, đánh trống pháp lớn, để thức tỉnh mê mộng.
Do đó, sẽ biết chắc hôm nay Đức Phật, hiện quang minh cũng lại như thế, muốn khiến cho chúng sinhđều được nghe biết pháp, mà tất cả thế gian rất khó tin, cho nên thị hiện tướng điềm lành.
Các thiện nam tử ! Vào thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì A tăng kỳ kiếp, lúc đó có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Cho nên, hiện nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện ra quang minh cũng lại như thế. Đức Phật trước nói tam tạng giáo lý, Kinh điển tiểu thừa, nông cạn dễ hiểu, sau thị hiện tướng quang minh điềm lành, khiến cho chúng sinh thật hiểu biết pháp môn viên đốn mà tất cả thế gian, tam giới đều khó tin, sau đó mà vì đại chúng giải nói diệu nghĩa, khiến cho nhập vào trí huệ của Phật.
Các thiện nam tử ! Ví như : Trong quá khứ bất khả tư nghì vô lượng kiếp, có một vị cổ Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai. Nhật là biểu thị huệ quang phá đêm dài của trời, người, chiếu sáng sự tối tăm của vũ trụ. Nguyệt là biểu thị định lực. Đăng là biểu thị giới trí. Cho nên giới, định, huệ viên mãn đầy đủ.
Tất cả chư Phật đều có tên chung và tên riêng. Nhật Nguyệt Đăng Minh là tên riêng. Như Lai cho đếnThế Tôn mười danh hiệu nầy, là tên chung của chư Phật. Danh hiệu của mỗi một vị Phật vốn có một vạn, biểu thị vạn đức trang nghiêm, nhưng sức trí nhớ của con người hạn hẹp, căn cơ ám độn, cho nên bớt đi còn năm ngàn, rồi còn một ngàn, một trăm, cuối cùng thì cố định mười danh hiệu, làm thông hiệu cho chư Phật, nay lược giải như sau.
Như Lai : Tức là Phật. Như là bất biến, tĩnh. Lai là tùy duyên, động. Động tĩnh nhất như, hổ tương vô ngại. Kinh Bát Nhã nói rằng : Chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, đây tức là pháp thân Như Laikhông sinh không diệt. Trong Thành Thật Luận nói rằng : Thừa như thật đạo, lai thành chánh giác, đây tức có sinh có diệt, ứng thân Như Lai vậy.
Ứng Cúng : Như Lai Thế Tôn đầy đủ vạn đức, đáng thọ nhận trời, người cúng dường.
Chánh Biến Tri : Biết một niệm hiện tiền, sinh ra vạn pháp, gọi là chánh tri. Biết vạn pháp chẳng lìa một tâm niệm là biến tri. Cho nên gọi là Chánh biến tri.
Minh Hạnh Túc : Phước đức, trí huệ cả hai đều đầy đủ.
Thiện Thệ : Đi đến chỗ tốt nhất, tức từ chỗ mê mà đến nơi trí địa.
Thế Gian Giải : Khéo hiểu pháp thế gian và xuất thế gian.
Vô Thượng Sĩ : Chư Bồ Tát chưa sạch vô minh thì còn có Phật ở trên, gọi là hữu thượng sĩ, chứng tột Như Lai gọi là Vô Thượng Sĩ.
Điều Ngự Trượng Phu : Điều là có uy đức cho nên chúng sinh cung kính mà điều phục được. Ngự là dùng pháp thiện xảo phương tiện nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Phật là đại trượng phu điều ngự được tất cả chúng sinh.
Thiên Nhân Sư : Đạo Sư của trời và người.
Phật : Nói đủ là Phật Đà Gia, nghĩa là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Phàm phu bị vây hãm ở trong lò lửa tam giới, kham nhẫn biển khổ, chẳng muốn lìa khỏi, nên gọi là không giác. A La Hán biết được sự nóng bức, mà muốn thoát khỏi tam giới tự giác được, còn Bồ Tát không những tự giác mà cũng giác tha, độ thoát chúng sinh tội khổ nhưng chưa giác ngộ viên mãn, chỉ có Đức Phật đã tự giác, giác tha và giác hạnh cũng viên mãn. Cho nên Phật là bậc đại giác viên mãn nhất.
Thế Tôn : Là bậc được trời, người, Thánh Hiền của thế gian và xuất thế gian tôn kính.
Diễn nói chánh pháp, ban đầu, giữa, sau cùng đều lành, nghĩa lý rất thâm sâu, lời lẽ khéo léo vi diệu, thuần nhất chẳng hỗn tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh tịnh.
"Diễn nói chánh pháp" : Pháp quyền xảo phương tiện, vì người thí giáo, cho nên chẳng nhất định. Với người căn tính sâu dày, thì nói pháp tự tính bổn thể ; vì người căn cơ bậc trung, thì nói pháp luân lý cho đến khoa học luân hồi ; còn đối với người chẳng hiểu biết, thì nói pháp nghiệp lực luật nhân quả. Diễn nói Phật pháp ngoài sự khế cơ khế lý, cũng phải dung khai và hợp. Khai được mà chẳng hợp thì có bắt đầu chẳng có kết thúc ; hợp được mà chẳng khai được, thì có kết thúc chẳng có bắt đầu, cũng phải tùy cơ ứng biến.
Từ khi Đức Phật bắt đầu phát tâm, xuất gia tu đạo bồ đề gọi là sơ thiện (ban đầu lành), tu khổ hạnh, bố thí nội tài, bố thí ngoại tài ; ngoại tài là : ngôi vua, vợ con ; nội tài là : đầu, mắt, tủy, não, thậm chí vì chúng sinh mà xả bỏ tính mạng, tức gọi là trung thiện (giữ lành). Đức Phật thuyết pháp giáo hóa chúng sinh bốn mươi chín năm, giảng Kinh hơn ba trăm hội, cho đến nhập Niết Bàn, là hậu thiện (sau cùng lành). Đức Phật ở trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp tu hành. Kiếp thứ nhất tu công đức là sơ thiện, kiếp thứ hai tu công đức là trung thiện, kiếp thứ ba tu công đức là hậu thiện. Sơ, trung, hậu, là quá trình tu hành, có bổn có tế. Bổn (gốc) tức là lúc ban đầu phát bồ đề tâm ; tế là thị hiện đủ thứ pháp môn sở tu. Nghĩa lý của pháp từ đầu đến cuối rất sâu xa, lời lẽ khéo léo vi diệu, thuần một pháp môn viên đốn, khiến cho người thích nghe, đầy đủ tướng thanh tịnh. Đầy đủ nghĩa là chẳng thiếu chẳng thừa. Thuần nhất chẳng hỗn tạp, là nhất thừa thuần tịnh, chẳng hai, chẳng ba.
Vì người cầu Thanh Văn thì nói pháp bốn Diệu Đế, độ : sinh, già, bệnh, chết, đắc được cứu kính Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật, thì nói pháp mười hai Nhân Duyên.
Thanh Văn, Duyên Giác là pháp tiểu thừa, tức là bậc sơ học của Phật giáo. Thanh Văn tức là nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo. Sau khi Phật thành đạo rồi, đầu tiên độ năm vị Tỳ Kheo, nói về pháp bốn Thánh Đế thì có thể độ : sinh, già, bệnh, chết, đắc được cứu kính Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, cứu kính thoát khỏi khổ quả trong tam giới. Đức Phật vì hàng Thanh Văn đệ tử nói pháp bốn Diệu Đế, Phương Đẳng cho đến Kinh Niết Bàn, từ cạn vào sâu, từ nhỏ đến lớn, thứ tự nhập vào pháp môn đại thừa diệu nghĩa.
Mười hai Nhân Duyên lại gọi là mười hai chi, tức cũng bao hàm nghĩa lý bốn Thánh Đế.
Vô minh, hành là chi năng dẫn;
Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là chi sơ dẫn;
Ái, thủ, hữu là chi năng sinh ;
Sinh, lão tử là chi sở sinh.
Sở dẫn, sở sinh tức khổ đế,
Năng dẫn, năng sinh tức tập đế,
Vô minh diệt rồi, đến lão tử diệt là diệt đế,
Quán nhân duyên trí thức là đạo đế.
Thanh Văn căn cơ chậm lụt, cho nên tổng tướng nói pháp bốn Đế, còn Bích Chi Phật căn cơ lanh lợihơn, cho nên nói pháp Nhân Duyên. Người tu Bích Chi Phật sinh vào lúc có Đức Phật tại thế, thì gọi là Duyên Giác. Nếu người tu hành vào lúc chẳng có Phật tại thế, quán mười hai Nhân Duyên mà ngộ đạogọi là Độc Giác. Do đó :
Vạn vật tĩnh quán giai tự đắc,
Tứ thời giai khánh dữ nhân đồng.
Những ngưới nầy tu hành ở trong thâm sơn cùng cốc, tĩnh tâm quán sát, thấy mùa xuân vạn vật đều tươi tốt, biết thế sự vô thường, một ngày trôi qua mạng cũng giảm dần, cho nên càng tinh tấn, như cứu đầu lửa cháy. Do khéo tư duy pháp mười hai Nhân Duyên, khoát nhiên khai ngộ, biết thân thể nầy là chín lỗ thường chảy ra vật nhơ nhớp, cuối cùng quy về lão hủ, lúc đó ngộ :
Các hành vô thường,
Là pháp sinh diệt,
Sinh diệt rồi,
Tịch diệt là vui !
Vì các Bồ Tát thì nói sáu Ba la mật, khiến cho đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thành Nhất thiết chủng trí.
Hành Bồ Tát đạo tức tự lợi lợi tha, xả mình vì người. Vì cứu độ giáo hóa chúng sinh, mà nguyện vào địa ngục, khiến cho chúng sinh tội khổ, phát bồ đề tâm mà thoát khỏi tam đồ. Chúng sinh khó độ, cho nên Bồ Tát luôn luôn lặn lội bôn ba, không từ khổ nhọc ứng thân vô lượng, cứu độ tất cả chúng sinh khó điều khó phục, từ biển khổ sinh tử đến bờ bồ đề Niết Bàn. Hành lục độ hạnh môn nầy, lập công lập đức, như cứu tự tánh chúng sinh, do đó :"Chúng sinh độ tận mới chứng bồ đề". "Thành nhất thiết chủng trí" : Nói về trí có ba : Nhất thiết trí, là không trí vậy ; Đạo chủng trí, là giả trí vậy ; Nhất thiết chủng trí, là không giả chẳng hai, trung đạo liễu nghĩa, ba trí viên dung. Sáu Ba La Mật nghĩa là đến bờ kia, tức là tu : bố thí, trí giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, sáu phạm hạnh.
Lại có vị Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Lại có vị Phật nữa cũng hiệu là Nhật NguyệtĐăng Minh. Như thế gồm có hai vạn vị Phật đều đồng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh và đồng một họ là Phả La Đọa.
Vị Phật đầu tiên cho đến hai vạn vị Phật đều đồng danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, họ là Phả La Đọa, nghĩa là "tiệp tập", "lợi căn" hoặc "mãn ngữ" ba nghĩa. 1. Tiệp tập : rất mau thành Phật. 2. Lợi căn : có đại trí huệ vì tu đủ thứ hạnh môn, học tập Kinh điển, đọc tụng pháp đại thừa. 3. Mãn ngữ : pháp nói ra đều viên mãn vô ngại.
Ngài Di Lặc nên biết ! Đức Phật đầu tiên, Đức Phật sau cùng đều đồng danh hiệu là Nhật NguyệtĐăng Minh, đầy đủ mười hiệu, pháp nói ra trước giữa sau đều lành. Vị Phật cuối cùng khi chưa xuất gia, có tám vị vương tử. Vị thứ nhất tên là Hữu Ý, vị thứ hai tên là Thiện Ý, vị thứ ba tên là Vô Lượng Ý, vị thứ tư tên là Bảo Ý, vị thứ năm tên là Tăng Ý, vị thứ sáu tên là Trừ Nghi Ý, vị thứ bảy tên là Tưởng Ý, vị thứ tám tên là Pháp Ý. Tám vị vương tử nầy đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều thống lãnh bốn thiên hạ. Khi nghe vua cha xuất gia đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thảy đều xả bỏ ngôi vua cũng theo xuất gia, phát tâm đại thừa, thường tu phạm hạnh, đều làm pháp sư, đều đã trồng gốc căn lành nơi ngàn vạn vị Phật.
Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Vô Năng Thắng, hai vạn vị Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nầy, diễn nói pháp trước giữa sau đều lành. Vị Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cuối cùng khi chưa xuất gia đã từng làm vua, có tám vị vương tử. 1. Tên Hữu Ý : nghĩa là có tư tưởng đại thừa. 2. Tên Thiện Ý : khéo phát tâmbồ đề đại đạo. 3. Tên Vô Lượng Ý : có đại trí huệ, hiểu vô lượng nghĩa. 4. Tên Bảo Ý : thật phát tính minh, cầu của báu bên trong vốn có. 5. Tên Tăng Ý : tăng tu vô thượng bồ đề đại đạo. 6. Tên Trừ Nghi Ý : người tu đạo chớ nghi ngờ, nếu khởi tâm nghi ngờ thì sẽ mê đồ, do đó trừ nghi hoặc thì khiến cho trí huệ tăng thắng. 7. Tên Tưởng Ý : tu pháp đại thừa biết pháp tính không, như không cốc dùng truyền thanh. 8. Tên Pháp Ý : hiểu pháp vi diệu thâm sâu vô thượng.
Tám vị vương tử nầy đều có oai nghi đức hạnh, mỗi vị thống lãnh bốn thiên hạ, khi nghe tin vua cha bỏ ngôi đi xuất gia, đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì cũng bỏ nước, bỏ vợ con xuất gia làm pháp sư đại thừa, phát bồ đề tâm, tu tập đủ thứ hạnh môn. Đây là nhân duyên căn lành đã từng cúng dường ngàn vạn vị Phật trong quá khứ. Phật thuở xưa có tám người con, hiện tại Phật Thích Ca có một người con, số tuy khác, nhưng đều có con, một người con là biểu thị một đạo thanh tịnh, tám người con là biểu thị Bát Chánh Đạo vậy.
Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, pháp giáohóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Nói Kinh nầy rồi, liền ngồi kiết già, ở trong đại chúng nhập vào Tam muội Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm đều bất động.
Lúc đó, trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha mạn thù sa, rải khắp ở trên đức Phật và các đại chúng. Khắp các thế giới của chư Phật đều có sáu thứ chấn động.
Lúc đó, ở trong chúng hội, hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thác bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương .v.v., các đại chúng đều được chưa từng có, vui mừng chắp taymột lòng nhìn Phật.
Bấy giờ, đức Như Lai phóng tướng luồng hào quang trắng, giữa chặn mày chiếu khắp phương đông, một vạn tám ngàn cõi Phật, như những gì nay thấy là các cõi nước của chư Phật.
Thuở xưa Phật cũng có bốn chúng, trời, rồng, tám bộ chúng, người, chẳng phải người, các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương .v.v… nói pháp đại thừa Bồ Tát vô lượng nghĩa. Nói Kinh xong rồi bèn ngồi kiết già, nhập vào Tam muội Vô lượng nghĩa xứ, hiện sáu tướng điềm lành nói pháp:
1. Điềm lành nói pháp.
2. Điềm lành nhập định.
3. Điềm lành mưa hoa.
4. Điềm lành chấn động.
5. Điềm lành chúng vui mừng.
6. Điềm lành phóng quang.
Đại Chúng thấy tướng điềm lành nầy đều đắc được chưa từng có, cho nên đều vui mừng, chắp tay lại một lòng chiêm ngưỡng Đức Phật.
Ngài Di Lặc nên biết ! Lúc đó, trong chúng hội có hai mươi ức vị Bồ Tát thích muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát đó, thấy luồng quang minh chiếu khắp các cõi Phật, được chưa từng có, đều muốn biết quang minh đó, do nhân duyên gì, thì có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có tám trăm vị đệ tử.
Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ tam muội dậy, vì Bồ Tát Diệu Quang mà nói Kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.
Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Di Lặc : Vào thời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, trong hội vô lượng nghĩa có hai mươi ức vị Bồ Tát, thấy luồng hào quang trắng của Phật cũng khởi nghi vấn, muốn biết nguyên nhân luồng quang minh nầy, cho nên cũng có vấn đáp, thì có Bồ Tát Diệu Quang, tức là tiền thân của Bồ Tát Văn Thù, có tám trăm vị đệ tử. Thuở xưa, Đức Phật xuất định rồi vì Bồ Tát Diệu Quangmà nói Kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, được Phật hộ niệm. Nay Đức Phật xuất định rồi, pháp bất cô khởi. Khởi tất sẽ vì người, cho nên cũng vì Xá Lợi Phất mà nói Kinh nầy.
Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, không rời khỏi chỗ ngồi, những người ở trong hội nghe pháp cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm đều chẳng động, nghe đức Phật nói pháp như bữa ăn trong chốc lát. Lúc đó, trong đại chúng chẳng có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm sinh lười mỏi.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua sáu mươi tiểu kiếp. Thuở xưa Phật nói pháp ở trong định, cho nên khiến cho người nghe cũng nhập định chuyên tâm, vì pháp mà chẳng cảm thấy thời gian dài, lúc đó sáu mươi tiểu kiếp tựa như thời gian khoảng một bữa ăn mà thôi. Sáu mươi tiểu kiếp dài bao lâu ? Nói dài mà chẳng dài, nói ngắn mà chẳng ngắn. Một kiếp là mười ba vạn chín ngàn sáu trăm năm. Một ngàn kiếp cộng lại làm một tiểu kiếp. Rõ là một niệm làm vạn kiếp, vạn kiếp tức là một niệm ; vạn kiếp không lìa một niệm tâm, thời gian dài ngắn đều phân biệt tại tâm. Ở cõi trời Tứ Thiên Vương chỉ một ngày một đêm mà tại nhân gian là năm mươi năm ! Ở cõi trời Đao Lợimột ngày một đêm thì ở nhân gian là một trăm năm. Đồng lý ấy ! Nếu người tu tập thiền định, chẳng khởi vọng tưởng, thì dù ngồi một ngày cũng chỉ cảm giác khoảng vài giây đồng hồ. Song, nếu người ngồi thiền mà cứ khởi vọng tưởng lăn xăn, thì dù ngồi mấy giây cũng cảm giác là đã lâu lắm, ở đó cứ khởi vọng tưởng. Cũng như người nghe Kinh, nếu chuyên tâm thì sẽ thâm nhập hiểu rõ nghĩa Kinh, được pháp hỷ sung mãn, còn có quan niệm về thời gian chăng ? Ngược lại, nếu người không thể tạm thời buông xả công việc hoặc gia đình, để chuyên tâm nghe Kinh nghe pháp, thì chẳng đắc được pháp ích, do đó chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trải qua hai mươi tiểu kiếp nói Kinh xong rồi, bèn ở trong đại chúng : Phạm, ma, Sa môn, Bà la môn và trời, người, A tu la, mà tuyên bố rằng : Vào nửa đêm nay Như Lai sẽ vào Vô Dư Niết Bàn.
Lúc đó, có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng, được đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Ngài, nói với các Tỳ kheo rằng : Bồ Tát Đức Tạng kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Đức Phật thọ ký xong, vào lúc nửa đêm, bèn vào Vô dư niết bàn. Đức Phật diệt độ rồi, Bồ Tát Diệu Quang trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua hai mươi tiểu kiếp, mới vì mọi người mà diễn nói. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều là đệ tử của Ngài Diệu Quang. Ngài Diệu Quang đều giáo hóa, khiến cho các vị đó kiên cố nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dùng sáu mươi tiểu kiếp để nói Kinh Pháp Hoa, cả đại chúng đều yên lặng ngồi nghe. Nói Kinh xong rồi, thì ở trong đại chúng : Phạm (Phạm thiên vương), ma (ma vương), Sa Môn (người xuất gia) và trời, người, A tu la .v.v… mà tuyên bố rằng : Như Lai sẽ vào Vô Dư Niết Bàn. Ngoài bốn thứ Niết Bàn nói ở trong Duy Thức Luận, còn có ba thứ Niết Bàn, đó là :
1. Tính Tịnh Niết Bàn : Phàm Thánh bình đẳng, tức pháp thân đức, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm.
2. Viên Tịnh Niết Bàn : Xuất chướng viên minh, tức Bát nhã đức, đây là ba đức bí tàng của Như Lai.
3. Phương Tiện Tịnh Niết Bàn : Vì chúng sinh, từ không ra giả, chẳng sinh mà thị hiện sinh, chẳng diệt mà thị hiện diệt, tức là giải thoát đức.
Ở trong sáu nẻo chẳng nhiễm chút trần, xuất Niết Bàn mà thường lạc, chỗ làm đều là phương tiện Niết Bàn. Chư Phật đều sinh ra ban ngày (dương), nhập Niết Bàn ban đêm (âm). Ban ngày, là biểu thị quang minh, ban đêm là biểu thị đen tối. Ở trong Duy Thức Kinh có bốn Niết Bàn :
1. Tự Tính Thanh Tịnh Niết Bàn : Phật và chúng sinh bình đẳng đều có.
2. Hữu Dư Y Niết Bàn : Vì có sắc thân, dùng giả làm thật, nhận tặc làm con, hướng ngoại truy cầu, khởi tham, sân, si, tâm ô nhiễm mà vướng mắc các phiền não nghiệp chướng, cho nên gọi là dư y khổ chưa diệt, chỉ khi nào đạt được ngã không pháp không, phá ngã pháp hai chấp thì mới được nhập vào Vô dư.
3. Vô Dư Y Niết Bàn : Nghĩa là phiền não đã hết sạch, khổ y cũng diệt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa.
4. Vô Trụ Xứ Niết Bàn : Vào nơi tịch diệt, trong Kinh Đại Bi Bát Nhã có nói : chẳng trụ sinh tử, chẳng trụ Niết Bàn, suốt thuở vị lai, tịch mà thường chiếu, lợi ích chúng sinh.
Hợp ba thứ Niết Bàn ở trước và bốn Niết Bàn ở sau lại, có thể hiểu là tự tính thanh tịnh tức là tính tịnh, hữu dư vô dư, xuất phiền não chướng. Vô trụ, xuất sở tri chướng tức là viên tịnh. Từ thể khởi dụng, thị hiện sinh, thị hiện diệt mà thật chẳng sinh chẳng diệt, tức phương tiện tịnh (phương tiện Niết Bàn). Tất cả chúng sinh vốn tính tịnh (Phật tính), nhị thừa vô học có đủ ba thứ Niết Bàn ở trước, duy chỉ có Đức Phật đã viên nhập bốn thứ Niết Bàn.
Lúc đó, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ở trong đại chúng Ty Kheo, và các đại chúng thọ ký cho Bồ Tát Đức Tạng, kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Phật vốn có đủ mười hiệu, đây chỉ lược nói ba. Phật thọ ký xong, lúc nửa đêm bèn nhập diệt. Bồ Tát Diệu Quangbèn thừa kế Phật vị, diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua tám mươi tiểu kiếp. Ngài cũng là thầy của tám vị vương tử, giáo hoá các vị vương tử kiên cố ở đạo Vô thượng chánh đánh chánh giác.
Các vị vương tử đó, cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật rồi, đều thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng hiệu là Nhiên Đăng.
Trong tám trăm vị đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham trước danh lợi, tuy cũng đọc tụngKinh điển, mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, cho nên gọi là Cầu Danh. Do người nầy cũng có gieo trồng các căn lành, nên được gặp vô lượng trăm ngàn ức các đức Phật, cung kínhcúng dường, tôn trọng tán thán.
Ngài Di Lặc nên biết ! Lúc đó Bồ Tát Diệu Quang đâu phải là người nào khác, chính là ta đây, còn Bồ Tát Cầu Danh chính là Ngài đấy. Nay thấy tướng điềm lành nầy, cùng với xưa kia không khác. Cho nên xét nghĩ, hôm nay đức Như Lai sẽ nói Kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.
Lúc đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa nầy, bèn dùng kệ để nói.
Tám vị vương tử, từ vô lượng kiếp đến nay, đã từng cung kính cúng dường trăm ngàn vạn ức vị Phật, xuất gia rồi tu nhân Phật, cho nên đều thành Phật, vương tử Pháp Ý là vị vương tử thành Phật cuối cùng, trong số tám vị vương tử, hiệu là Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng là thầy của Phật Thích Ca Mâu Ni, mà Bồ Tát Văn Thù là thầy của Phật Nhiên Đăng. Nếu nói về vai vế thì Bồ Tát Văn Thù là sư tổ của Phật Thích Ca, nhưng Phật pháp bình đẳng, chẳng phân cao thấp, viên dung vô ngại. Chư Phật Bồ Tátvì cứu độ chúng sinh mà thị hiện sinh, thị hiện diệt, giống như hiện ra đủ thứ màn cảnh trên sân khấu, khi biểu diễn xong thì cũng trở về bổn vị, mà nhập diệt.
Trong số tám trăm vị đệ tử của Bồ Tát Diệu Quang (Văn Thù), thì có một người tham trước danh văn lợi dưỡng, cho nên gọi là Cầu Danh. Vì thâm tâm của người nầy nhiễm trước trên danh lợi, cho nên không thể chuyên nhất đọc tụng Kinh điển, mà phần nhiều quyên mất, trí huệ quang minh lâu mà chưa hiển hiện. Tuy nhiên huệ nghiệp chưa tu được viên mãn, nhưng phước đức đã trồng được vô lượng, vì Bồ Tát Cầu Danh đã từng ở trong trăm kiếp cúng dường cung kính tôn trọng tán thán trăm ngàn vạn ức các Đức Phật. Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Di Lặc : "Ngài có biết vị Bồ Tát Diệu Quang đó là ai chăng ? Vị đó chính là tiền thân của tôi, còn Bồ Tát Cầu Danh là ai ? Chính là Ngài đấy !" Bồ Tát Văn Thù lại nói :"Bây giờ lại thấy tướng điềm lành nầy, tôi nghĩ chắc Đức Phật muốn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa."
Nếu người nào thành tâm đọc tụng Kinh điển, thì thường có trời người rải hoa, có hương thơm khác lạ tỏa khắp, quỷ thần cung kính cúng dường. Nếu vì tham cầu danh văn lợi dưỡng mà xuất gia thì quá ư sai lầm. Người tu đạo, không nên cầu cúng dường nhiều, càng không nên vì cúng dường ít mà bực bộinơi tâm. Người chân chính tu đạo thì nhiều cũng ít, ít cũng nhiều, đều xem bình đẳng. Tôi có một đệ tửtại gia người ngoại quốc, thấy người dâng bì thơ cúng cho tôi, y cũng làm theo, tôi mở ra xem thì chỉ một xu, tôi rất cao hứng vì đó là tâm chân thành nhất của y, ngày thứ hai y lại cúng dường nữa và y giải thích hôm qua y chẳng mang theo tiền. Cho nên, người có tâm thành thì ít cũng nhiều, nếu chẳng có tâm thành thì nhiều cũng ít.
Tôi nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô số kiếp
Có Phật Nhân trung tôn
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Thế Tôn diễn nói pháp
Độ vô lượng chúng sinh
Vô số ức Bồ Tát
Khiến vào trí của Phật.
Trước khi Phật xuất gia
Cũng theo tu phạm hạnh.
Phật nói Kinh đại thừa
Tên là Vô Lượng Nghĩa
Ở trong các đại chúng
Mà rộng vì phân biệt.
Phật nói Kinh nầy rồi
Bèn ở trên pháp tòa
Ngồi kiết già nhập định
Tên Vô lượng nghĩa xứ.
Hiện sáu thứ điềm lành để nói pháp, trống trời trong hư không tự vang lên, Thiên Long bát bộ đều cung kính cúng dường đấng Nhân Trung Tôn, tức là Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. Ở trong quang minh của Phật, thấy có sinh tử nghiệp báo và dùng lưu ly pha lê và các thứ báu để trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Và thấy các trời người
Chúng rồng, thần, Dạ xoa
Càn thát, Khẩn na la
Đều cúng dường đức Phật.
Lại thấy các Như Lai
Tự nhiên thành Phật đạo
Sắc thân như núi vàng
Đoan nghiêm rất đẹp đẽ.
Như trong lưu ly sạch
Hiện ra tựa vàng thật
Thế Tôn trong đại chúng
Diễn nói pháp thâm sâu.
Mỗi mỗi các cõi Phật
Vô số chúng Thanh Văn
Vì Phật quang chiếu đến
Nên thấy đại chúng kia.
Hoặc thấy các Tỳ kheo
Ở trong nơi rừng núi
Tinh tấn giữ tịnh giới
Như giữ gìn minh châu.
Trời mưa hoa Mạn đà
Trống trời tự nhiên kêu
Các trời, rồng, quỷ, thần
Cúng dường Nhân trung tôn.
Tất cả các cõi Phật
Tức thời đều chấn động
Phật phóng quang giữa mày
Hiện nhiều việc hiếm có.
Quang nầy chiếu phương đông
Một vạn tám ngàn cõi
Hiện sinh tử nghiệp báo
Của tất cả chúng sinh.
Lại thấy các cõi Phật
Dùng các báu trang nghiêm
Màu lưu ly pha lê
Đều do Phật quang chiếu.
Trong quá khứ vô lượng kiếp, có một vị cổ Phật, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Thế Tôn, từng độ thoátvô lượng chúng sinh, thành tựu đạo nghiệp vô số các Bồ Tát. Trước khi Phật chưa xuất gia, có tám vị vương tử cũng theo cha tu phạm hạnh. Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, vì các đại chúngrộng phân biệt diễn nói vô lượng nghĩa rồi bèn ngồi kiết già nhập định vô lượng nghĩa. Lúc đó, ở trongquang minh của Phật thấy có trời rồng tám bộ chúng, đều cúng dường Đức Phật ở nước của mình. Lại thấy các Như Lai diễn nói pháp, nghĩa lý rất sâu xa, trước, giữa, sau đều lành. Tự nhiên thành Phật đạo, pháp là như thế, vốn chẳng tạo tác, Phật đạo thanh tịnh, khế lý ngộ chân tức chứng chánh giác, cho nên gọi tự nhiên thành. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật, tử kim quang tụ thân, thắng diệu tịnh minh, màu sắc như lưu ly trong sạch, trong ngoài đều trong suốt. Hiện ra tựa vàng thật : thân giống như vàng, tính như lưu ly. Sắc thân vi diệu, hiện ở trong tính.
Lại thấy chư Phật ở cõi nước kia, ở trong chúng hội vô số Thanh Văn diễn nói pháp vi diệu thâm sâu. Lại thấy chúng Tỳ Kheo nhị thừa ở nơi thâm sơn cùng cốc, tinh tấn giữ giới thanh tịnh, như giữ gìn hạt minh châu. Họ ngày đêm sáu thời đều tự nghiêm giữ giới luật. Ban ngày, trước, giữa, sau, phân ra ba thời ; đêm, trước, giữa, sau phân ra ba thời. Giữ được một phần giới luật, thì có một phần quang minh, hà huống là giữ gìn giới luật thanh tịnh như thế, thì tự tính quang minh tự nhiên sẽ hiển hiện, cho đến sẽ thành Phật. Cho nên, trong giáo nghĩa của chư Phật lấy giới luật làm thầy, nhất là người xuất gia tâm phải ngay thẳng, chân thật, giữ giới thanh tịnh thì sẽ có định, huệ mới có thể thành tựu vô thượng bồ đề.
Năm giới mười điều lành là điều kiện căn bản làm người, giữ gìn luôn luôn thì sẽ tịnh hóa thân tâm. Làm bậc Sa Môn mỗi ngày nên niệm câu kệ nầy :
Giữ miệng, nhiếp thân, tâm chớ phạm,
Đừng hại tất cả hữu tình,
Khổ hạnh vô ích hãy xa lià,
Như vậy hành giả đáng nhập thế.
Nghĩa là, người xuất gia cần phải tự giữ gìn giới luật, thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh, muốn thành tựu tất cả chúng sinh, thì đừng chướng ngại kẻ khác, cho đến một con vật cũng đừng gây phiền não cho họ. Không những thân đừng phạm lỗi lầm, gây hại kẻ khác, dù ý niệm hại người cũng đừng khởi lên. Đã sinh khởi niệm ác thì hãy diệt trừ, niệm thiện chưa sinh, thì khiến cho sinh ra, niệm thiện đã sinh thì khiến cho tăng trưởng.
Lại thấy các Bồ Tát
Bố thí và nhẫn nhục
Số lượng như Hằng sa
Đều do Phật quang chiếu.
Lại thấy các Bồ Tát
Vào sâu các thiền định
Thân tâm lặng chẳng động
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy các Bồ Tát
Biết pháp tướng tịch diệt
Đều ở cõi nước kia
Nói pháp cầu Phật đạo.
Lúc đó bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng
Hiện sức đại thần thông
Tâm họ đều vui mừng.
Thảy đều tự hỏi nhau :
Việc nầy nhân duyên gì ?
Thế Tôn của trời người
Vừa mới ra khỏi định
Khen Bồ Tát Diệu Quang
Ông là mắt thế gian
Nơi tin của tất cả
Phụng trì được pháp tạng.
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được
Đức Thế Tôn khen ngợi
Khiến Diệu Quang vui mừng.
Bèn nói Kinh Pháp Hoa
Trọn sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời khỏi toà ngồi
Pháp nói ra thâm diệu.
Ngài pháp sư Diệu Quang
Thảy đều thọ trì được.
Lại thấy Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng tu sáu độ, tức là : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Bố thí có ba là : Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Nhẫn nhục cũng có ba là : Sinh nhẫn, pháp nhẫn và vô sinh pháp nhẫn.
Lại thấy các Bồ Tát vào sâu các thiền định, ngày đêm sáu thời đều an trụ ở trong thiền định. Thân tâmlặng chẳng động, trong ngoài tĩnh lặng, thân tâm chẳng động vào sâu trong định để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy các Bồ Tát, đã biết tướng tịch diệt của các pháp, mà ở tại nước của mình nói pháp cầu Phật đạo. Những gì thấy ở trong quang minh của Phật, đều khiến cho bốn chúng vui mừng mà háo kỳ, cùng nhau tự hỏi vì sao Phật hiện sức đại thần thông nầy ? Phật là đấng tôn kính nhất của trời người, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ tam muội dậy, bèn tán thán Bồ Tát Diệu Quang là một vị minh nhãn thiện tri thức, phụng trì được và chứng biết tạng pháp của Như Lai, là đạo sư nơi nương tựa tin cậy của tất cả trời người. Đức Thế Tôn khen ngợi, khiến cho Bồ Tát Diệu Quang vui mừng, sau đó bèn diễn nói Kinh Pháp Hoa, trải qua sáu mươi tiểu kiếp, chẳng lìa khỏi toà ngồi. Nói pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, khiến cho pháp sư Diệu Quang tin hiểu thọ trì.
Phật nói Kinh Pháp Hoa
Khiến chúng vui mừng rồi.
Tức cũng trong ngày đó
Nói với chúng trời người
Nghĩa thật tướng các pháp
Đã vì các ông nói.
Ta nay trong đêm nay
Sẽ vào cõi Niết bàn
Các ông hãy tinh tấn
Nên xa lìa phóng dật.
Chư Phật rất khó gặp
Ức kiếp gặp một lần
Hết thảy con của Phật
Nghe Phật vào Niết bàn.
Ai nấy đều buồn khổ
Sao Phật diệt sớm thế ?
Đấng Pháp Vương Thánh Chúa
An ủi vô lượng chúng.
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Vị Bồ Tát Đức Tạng
Nơi vô lậu thật tướng.
Tâm đã đượt thông đạt
Kế đây sẽ thành Phật
Hiệu là Phật Tịnh Thân
Cũng độ vô lượng chúng.
Đêm nay Phật diệt độ
Như củi hết lửa tắt
Phân chia các xá lợi
Mà xây vô lượng tháp.
Tỳ kheo Tỳ kheo ni
Số đông như Hằng sa
Lại càng thêm tinh tấn
Để cầu vô thượng đạo.
Phật nói Kinh Pháp Hoa nầy, khiến cho đại chúng hoan hỉ tin mà thọ trì, trong ngày đó vì trời, rồng, tám bộ quỷ thần khai thị diệu nghĩa thật tướng của các pháp. Các pháp tức tất cả pháp, tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn tuy nhiều, chỉ cần hiểu biết một pháp môn, tức là biết một biết tất cả, rõ một rõ tất cả, nghe một biết mười, một tức vô lượng. Có người hỏi tôi, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào là đệ nhất ? Đây là vấn đề nhưng cũng chẳng phải vấn đề, vì sao. Chẳng thấu rõ thì là vấn đề, minh bạch rồi thì chẳng thành vấn đề. Tôi đáp rằng : Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là đệ nhất. Những pháp môn nầy đâu chẳng phải là dùng để đối trị tập khí mao bệnh của chúng ta, chỉ cần theo bệnh cho thuốc, khế hợp với căn cơ của chúng ta, tức là pháp môn vô thượng. Thật tướng, vô tướng, cũng vô sở bất tướng, nếu có tướng thì chẳng phải là thật tướng. Tất cả tướng đều do thật tướng sinh ra, nhưng bổn thể của nó là vô tướng, vì bổn thể là vô tướng, mới sinh ra tất cả tướng. Kinh Kim Cangnói rằng :
Phàm tất cả tướng đều không thật,
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai.
Cho nên các pháp là một pháp, Kinh Pháp Hoa tức là pháp thật tướng.
Đức Phật nói, ta đã vì các ông diễn nói các pháp thật tướng, vì thế trong đêm nay ta sẽ nhập diệt, từ nay về sau các ông hãy tự nỗ lực, nhất tâm tinh tấn, xa lìa giải đãi phóng dật. Phật thị hiện nhập Niết Bàn, cũng là phương pháp giáo hóa chúng sinh, ví nếu Phật sống mãi ở đời, thì chúng sinh sẽ sinh tâm ỷ lại và phóng dật. Người xuất gia chẳng tu hành, giống như suốt ngày đếm tiền bạc cho họ, mà mình chẳng có đồng xu nào, nơi pháp chẳng tu hành, lỗi mình cũng như thế. Nên biết Phật pháp khó nghe, Thánh Tăng khó cầu, Phật Bảo trải qua trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được ! Như hiện tại tôi ngày ngày thuyết pháp, nhưng các bạn vì ỷ lại có thầy mà chẳng phát tâm nỗ lực, một khi ngày nào tôi lìa các bạn, thì ngược lại khiến cho các bạn sinh ra sức tự lập mà hăng hái vươn lên. Nên nhớ, người tu hành phải nương sức của mình, phấn chấn tinh thần, dũng mãnh tinh tấn.
Khi tám vị vương tử và các đại chúng nghe tin Phật muốn vào Niết Bàn, thì ai nấy cũng đều buồn rầukhổ não. Sư đồ tình như cha con, chẳng có ai mà không nói : sao đức Phật nhập diệt quá sớm ! Lúc đó, đấng Thánh Chúa, vua của các pháp, thấy đại chúng bi ai, thì thương xót an ủi đại chúng nói : "Các con đừng quá bi thương lo sợ, tuy ta bỏ các con mà đi, còn có Bồ Tát Đức Tạng, kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai. Vị đó đã thông đạt pháp vô lậu thật tướng, sẽ thay thế ta tiếp tục giáo hóa chúng sinh." Phật thọ ký truyền pháp rồi, trong đêm ấy vào Niết Bàn, như củi hết lửa tắt.
Di thể của Phật hỏa thiêu rồi, phân chia xá lợi, xây vô lượng bảo tháp để cúng dường. Phật nhập diệtrồi, thì hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đông như số cát sông Hằng đều tôn kính di chúc của Phật mà càng tinh tấn tu đạo. Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni có ba nghĩa :
1. Khất thực.
2. Bố ma.
3. Phá ác.
Phá vô minh phiền não thì trí huệ sẽ tăng trưởng. Khi một vị Sa Di thụ giới Cụ túc, thì có tam sư thất chứng, hợp lại là mười vị Tỳ Kheo, đại biểu chư Phật cho thọ giới. Khi đăng đàn truyền giới, thì đắc giớiHòa Thượng hỏi y :"Ông có phải đại trượng phu chăng ?" Đáp :"Phải". Lại hỏi :"Ông đã phát bồ đề tâmchưa ?" Đáp :"Đã phát bồ đề tâm !" Lời nầy vừa nói ra thì thiên ma ngoại đạo kinh hãi dựng lông, vì quyến thuộc của ma vương bớt đi một người, còn đệ tử của Phật lại thêm một người.
Vị pháp sư Diệu Quang
Phụng trì tạng Phật pháp
Trong tám mươi tiểu kiếp
Rộng nói Kinh Pháp Hoa.
Tám vị Vương tử đó
Được Diệu Quang giáo hoá
Kiên cố đạo vô thượng
Thấy được vô số Phật.
Cúng dường chư Phật rồi
Cũng theo tu đại đạo
Liên tiếp đều thành Phật
Thứ tự mà thọ ký.
Thiên Trung Thiên cuối cùng
Hiệu là Phật Nhiên Đăng
Là đạo sư trời người
Độ thoát vô lượng chúng.
Vị pháp sư Diệu Quang
Có một vị đệ tử
Tâm thường hay giải đãi
Tham trước về danh lợi.
Cầu danh lợi không chán
Thường đến nhà giàu sang
Bỏ bê đọc tụng Kinh
Quên mất chẳng thông thuộc.
Vì bởi nhân duyên đó
Nên gọi là Cầu Danh
Cũng tu các nghiệp thiện
Được thấy vô số Phật.
Cúng dường các đức Phật
Theo tu hành đại đạo
Đủ sáu Ba la mật
Nay gặp Phật Thích Ca.
Sau nầy sẽ thành Phật
Hiệu là Phật Di Lặc
Rộng độ các chúng sinh
Số đông nhiều vô lượng.
Pháp sư Diệu Quang là đệ tử hộ pháp của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, trải qua tám mươi tiểu kiếp để diễn nói Kinh Pháp Hoa, phụng trì Pháp của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, và giáo hóa các vị vương tử kiên cố hành trì pháp đại thừa viên đốn, tức vô thượng đạo. Vì thấy được vô lượng chư Phật và cúng dường chư Phật, thuận theo chư Phật tu hành vô thượng đạo. Lại thứ tự tiếp tục thành Phật đạo, thứ lớp thọ ký nhau, trong tám vị vương tử, vị thành Phật cuối cùng hiệu là Phật Nhiên Đăng, là bậc đạo sưcủa trời người, độ thoát vô lượng chúng sinh. Phật là Thiên Trung Thiên, Thánh Trung Thánh.
Pháp sư Diệu Quang có một vị đệ tử, tham cầu danh lợi chẳng giữ giới luật, ít dụng công tu hành, thường đi đến nhà người tại gia giàu có, để mong cầu lợi dưỡng. Tuy Ngài tham cầu danh lợi, bỏ bê đạo nghiệp, nhưng bên cạnh đó Ngài tu căn lành rộng lớn, có cơ hội được gặp Phật và cúng dường chư Phật. Nối tiếp mà thuận theo chư Phật, trừ khử các các tập khí mao bệnh xấu mà tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát-nhã, sáu độ vạn hạnh. Do sự nghiêm tịnh tu trì trải qua vô lượng kiếp, tích tụ công đức đã thành tựu và phước huệ đều tròn đầy, cho nên hôm nay được gặp Phật Thích Ca Mâu Ni, mà được thọ ký tương lai sẽ thành Phật, thay thế Đức Phật Thích Ca hiệu là Phật Di Lặc. Phật Di Lặc sẽ ở dưới cội Long Hoa, thuyết pháp ba hội, độ vô lượng vô biên chúng sinh.
Kỳ thật, Bồ Tát Cầu Danh chẳng phải thật tham cầu danh lợi, chỉ vì chúng sinh điên đảo ngu si, mà Ngài dùng tâm đại từ bi, lợi dụng pháp quyền xảo phương tiện, giả bộ ở trong đời thế tục, tùy loại mà hóa độtất cả chúng sinh điên đảo mê các trần lao. Bồ Tát hiện tướng thuận nghịch để khai thị chúng sinh, đâu chẳng phải là phá sự tham trước và giải đãi của chúng sinh. Song, chúng sinh chẳng hiểu sự khổ tâmcủa Ngài, không ngại gian khổ để cứu độ chúng sinh, ngược lại vì hình tướng bề ngoài của Ngài, như kẻ ăn mày mà khinh khi Ngài, thậm chí còn mắng chưởi và đánh đập Ngài. Nhưng đối với sự thành bạivinh nhục, Ngài đã hoàn toàn chẳng còn bận lòng. Trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia có nói :
"Bao lần sinh, bao lần chết,
Sinh tử đăng đẳng chẳng định ngừng,
Từ khi đốn ngộ liễu vô sinh,
Đối với vinh nhục hà tất buồn vui."
Nghĩa là, thân tâm của Ngài như hư không, rộng khắp pháp giới, những gì Ngài làm đều như ánh sáng mặt trời mặt trăng tỏa muôn phương, khen chê Ngài đều chẳng bận lòng.
Dưới đây là bài kệ của Bồ Tát Di Lặc ý vị và nghĩa lý thâm trường :
"Lão quê mặc áo vá,
Cơm hẩm no đầy bụng,
Áo rách che rét lạnh,
Vạn sự hãy tùy duyên.
Có ai mắng lão quê,
Lão quê chỉ nói tốt,
Có ai đánh lão quê,
Lão quê nằm lăn ra,
Khạc nhổ vào mặt lão,
Để nó tự khô lấy,
Ta cũng chẳng tốn sức,
Người cũng chẳng phiền não,
Đó là Ba La Mật,
Cũng là báu vô giá,
Nếu làm được như thế,
Lo gì đạo không thành."
Lão quê không những mặc áo vá, mà uống trà cũng đơn giản, ăn cơm đạm bạc, chẳng ăn muối, chẳng ăn dầu, càng chẳng tham cầu thức ăn ngon. Ngài chẳng sợ lạnh đói khác, vạn sự đều tùy duyên, tức tùy duyên không đổi, không đổi mà tùy duyên. Đến đi tự như, do đó tiêu giao thế giới mặc đông tây. Cho nên các sự vinh nhục hà tất phải buồn vui, đối với sự nhục mạ đánh đập của người khác, không những chẳng sân hận mà ngược lại càng sinh tâm cảm kích công đức. Vì những lới ác đánh đập đó, đâu chẳng phải là thiện tri thức thành tựu nhẫn nhục Ba La Mật của Bồ Tát. Nếu chẳng có đại hùng, đại lực, đại từ, đại nguyện, đại hạnh của Bồ Tát, thì không thể có định lực nhẫn nhục tinh tấn vô thượng nầy. Nhẫn nhục Ba La Mật biết dễ mà hành khó. Người ban đầu phát tâm tu đạo phải dùng : kiên, thành, hằng ba tâm trợ đạo. Đời người ngắn ngủi, các hành vô thường, sinh tử là việc lớn, nếu không kịp thời tu hành, thì tương lai hối hận đã quá muộn. Bồ Tát khéo biết :"Thời gian giảm dần, thì mạng sống cũng giảm", cho nên dùng thân người nầy, mà thanh tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu. Tu đạo chẳng việc gì khó, chỉ cần cước đạp thật địa, đừng sợ gian nan khốn khổ, dũng mãnh tinh tấn, tất sẽ thành tựu.
Phật kia diệt độ rồi
Người giải đãi là Ngài
Còn pháp sư Diệu Quang
Nay chính là thân ta.
Tôi thấy Phật Đăng Minh
Điềm lành xưa như vậy
Cho nên biết Phật nay
Muốn nói Kinh Pháp Hoa.
Tướng nay như điềm xưa
Là phương tiện chư Phật
Nay Phật phóng quang minh
Giúp bày nghĩa thật tướng.
Các người nay nên biết
Chắp tay một lòng chờ
Phật sẽ rưới mưa pháp
Đầy đủ người cầu đạo.
Những người cầu ba thừa
Nếu có chỗ nghi hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết chẳng còn thừa.
Đức Phật Đăng Minh nhập diệt rồi, người giải đãi đó là Ngài, còn tôi tức là Pháp sư Diệu Quang.
Kinh nghiệm quá khứ của tôi biết Phật Thích Ca Mâu Ni, trước hết hiện sáu điềm lành, chắc chắn là muốn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Chư Phật hiện tướng điềm lành để nói pháp, là pháp thiện xảo phương tiện. Hiện nay Phật Thích Ca Mâu Ni phóng đại quang minh, là trợ giúp hiển bày nghĩa thật tướng, cho nên đại chúng ở trong hội nên cung kính chắp tay yên lặng chờ Phật nói pháp yếu. Chúng sinh nghĩ đến pháp như khát nghĩ đến nước. Cho nên Như Lai mưa pháp vũ, thấm nhuần khắp tất cả tâm chúng sinh. Đây dụ cho tất cả chúng sinh như : hoa cỏ thụ mộc tùng lâm, trận mưa lớn tưới xuống khắp, tùy theo sự thu hút của cây lớn nhỏ mà được sinh trưởng. Phật khéo léo quán căn cơ để thí giáo, cho nên phổ độ hết thảy ba căn (thượng, trung, hạ) và thu nhiếp hết chúng sinh lợi, độn căn, mà phân biệt diễn nói pháp đại thừa, tiểu thừa và nhân thiên thừa. Ba thừa ở đây tức là : Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác và nhân thiên thừa. Phật nói pháp yếu độ hết tất cả người ba thừa, khiến chẳng còn xót thừa nào.
Người xưa nói rằng :
"Đạo thì phải hành,
Chẳng hành sao có đạo.
Đức là do tu,
Không tu sao có đức ?"
Quy về cuối cùng nhất của nhân loại là : Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, cứu kính Niết Bàn. Do đó, trước hết phải y pháp tu hành, cung hành thực tiễn. Thế mà, có những người trước khi chưa tin Phật, trước khi chưa phát nguyện, còn bình an vô sự, nhưng khi tin Phật rồi, phát nguyện rồi thì đủ thứ chướng ngaị phát sinh. Đó là nguyên nhân gì ? Vì từ vô lượng kiếp đến nay, do vô minh mà cứ tạo nghiệp : giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối .v.v… đủ thứ ác nghiệp, chẳng ra khỏi trần lao, mà theo sinh tử không ngừng. Vô số ác nghiệp đã gây ra, đều là nghiệp đời quá khứ tích tụ lần lược trổ ra, nếu giác ngộ được hôm nay đúng, hôm qua sai, tinh tấn tu hành, thì những nghiệp chướng phiền não, đã tạo ra trong quá khứsẽ hiện tiền. Những ma khảo nầy đâu chẳng là một thứ ma luyện đối với người tu hành, do đó :"Ma là ma chân đạo, chân đạo tức có ma." Nếu tùy duyên tiêu nghiệp cũ, dùng tâm nhẫn nại để ứng đối, đừng tạo thêm nghiệp mới, giữ gìn giới luật thanh tịnh, thì sẽ trả nợ cũ ra khỏi tam giới.
HT Tuyên Hóa