Mục Lục
Rất lâu xa về trước, vua Diệu Trang Nghiêm là một Tỳ Kheo tu đạo, ngoài ra còn có ba vị Tỳ Kheo khác, phát tâm tu đạo ở trong rừng sâu. Vì chẳng có người cúng dường, vì đời sống ưu lự nên ảnh hưởng đến sự tu hành. Trong đó có một Tỳ Kheo (tiền thân của vua Diệu Trang Nghiêm), phát tâm cúng dường ba vị Tỳ Kheo, khiến cho họ an tâm tu đạo, chẳng vì cơm áo chỗ ở mà phân tâm. Do đó, quyết định hoàn tục để đi làm việc kiếm tiền, để cúng dường ẩm thực, quần áo, thuốc thang, ngọa cụ, các thứ đồ cần dùng hằng ngày, cho ba vị Tỳ Kheo đó.Một ngày nọ, Ngài làm việc ở gần cung vua, thấy ông vua đi du tuần rất là oai phong, trước sau có hộ vệ rất là oai võ. Tâm bèn sinh vọng tưởng : ‘’Kiếp sau ta mà làm vua thì rất là oai phong, ai ai cũng đều cung kính ta ! Lúc đó, ta sẽ cúng dường tất cả các vị Tỳ Kheo.’’ Một niệm đó sinh ra, quả nhiên đời sau làm vua Diệu Trang Nghiêm, nhưng quên mất lời nguyện làm hộ pháp.
Sau đó, ba vị Tỳ Kheo đều chứng quả Thánh, dùng pháp nhãn quán sát nhân duyên hộ pháp, thì biết được vị này là người hộ pháp, do công đức xưa kia mà tái sinh làm vua. Ông vua đó có tâm từ bi thương dân như con. Song, tin về tà giáo, trong tâm có tà tri tà kiến. Ba vị Thánh nhân muốn báo ân hộ pháp xưa kia, nên mới bày cách cứu ông ta ra khỏi biển khổ, mới cùng nhau tìm cách giải cứu. Một vị phát nguyện làm vợ của ông ta (Tịnh Đức phu nhân), hai vị kia phát tâm làm con của ông ta (Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn). Tại sao ? Vì phải nhờ vợ và con có hiếu, dùng cảm tình để làm sức ảnh hưởng, mới làm thay đổi được tư tưởng tà tri tà kiến tin ngoại đạo của ông vua.
Phẩm này thuật lại vua Diệu Trang Nghiêm, nhờ sự cảm hóa của hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng), khai mở tri kiến của Phật, đắc được pháp ích, sau đó theo Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí xuất gia tu đạo, mà chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng : Về đời xa xưa, trải qua vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Đức, có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn.
Sau khi nói xong Phẩm Đà La Ni, thì lúc đó Đức Phật bảo đại chúng trong hội Pháp Hoa rằng : Vào thuở xa xưa trong quá khứ, trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng kỳ không thể nghĩ bàn. Lúc đó, có vị Phật ra đời danh hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Thừa đạo như thật, lai thành chánh giác. ứng Cúng, xứng đáng thọ chúng sinh trong chín pháp giới cúng dường. Chín pháp giới là gì ? Tức là pháp giới của Bồ Tát, pháp giới của Duyên Giác, pháp giới của Thanh Văn, pháp giới của trời, pháp giới của loài người, pháp giới của A tu la, pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ quỷ, pháp giới của địa ngục.
Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu. Đó là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, có đủ mười danh hiệu này, mới đủ tư cách xưng là Thế Tôn, tức là Thánh nhân tôn quý nhất của thế và xuất thế.
Vào thời Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, có một cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có một ông vua tên là Vua Diệu Trang Nghiêm. Phu nhân của vua tên là Tịnh Đức phu nhân. Ông vua có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn. Tiền thân của bốn người này, trong quá khứ là bốn vị Tỳ Kheo cùng tu với nhau ở trong rừng sâu.
Hai người con đó, có đại thần lực phước đức trí huệ, từ lâu đã tu hành Bồ Tát đạo, đó là đàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sàn đề Ba la mật, Tỳ ly gia Ba la mật, thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ xả, cho đến ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, đều thấu suốt thông đạt.
Hai người con của Diệu Trang Nghiêm là Tịnh Tạng (Bồ Tát Dược Vương) và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược Thượng), đều có sức đại thần thông, có thể hiện mười tám biến. Phước đức trí huệ đầy đủ, từ lâu đã tu đạo Bồ Tát, tức cũng là pháp môn mười Ba la mật. Ba la mật là gì ? Dịch là đến bờ kia. Tập quán của Ấn Độ là phàm làm việc gì xong đều là Ba la mật. Nay lược giải mười Ba la mật như sau :
1). Đàn Ba la mật: Đàn dịch là bố thí. Bố thí có ba: a. Tài thí.
b. Pháp thí.
c. Vô úy thí.
2). Thi la Ba la mật : Thi là dịch là giới. Giới là mẹ thành Phật. Phạm giới giống như chiếc thuyền ở giữa biển, phát hiện đáy thuyền có lỗ lủng. Nếu lập tức tu sửa, thì còn có thể khỏi nguy hiểm. Bằng không thì thuyền sẽ chìm, người sẽ chết, hối hận đã quá muộn. Tu bổ như thế nào? Tức là làm nhiều công đức, có tiền thì bố thí tiền, có sức thì bố thí sức, ủng hộ đạo tràng, do đó có câu: ‘’Lập công chuộc tội’’.
3). Sàn đề Ba la mật : Sàn đề dịch là nhẫn nhục. Việc không nhẫn được cũng phải nhẫn, không thể chịu đựng được cũng phải chịu, đó là thuốc hay tiêu trừ tội chướng. Tóm lại, khi nóng giận thì nên nhẫn nhịn, đừng bạo phát, vì ‘’Nhẫn thì an ổn’’.
4). Tỳ ly gia Ba la mật : Tỳ ly gia dịch là tinh tấn. Người học Phật pháp nhất định phải tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh tấn, đêm tinh tấn. Tóm lại, dũng mãnh tinh tấn cũng như thuyền đi ngược dòng, không tiến thì lùi.
5). Thiền Ba la mật: Thiền dịch là tĩnh lự, làm lắng đọng tư tưởng, tức cũng là ngưng vọng tưởng. Tu đến cảnh giới như như bất động, thì mới đắc được liễu liễu thường minh. Lúc đó sẽ nhậm vận tự tại, tùy theo ý muốn, chẳng bị gì hạn chế, đó tức là ‘’Thần thông diệu dụng’’.
6). Bát nhã Ba la mật: Bát nhã dịch là trí huệ. Vì Bát nhã gồm có ba nghĩa, cho nên không dịch.
A. Văn tự Bát nhã : Tức là tất cả kinh điển.
B. Quán chiếu Bát nhã : Tức là dùng văn tự để quán chiếu tất cả cảnh giới, mới thấu hiểu được chân thật nghĩa.
C. Thật tướng Bát nhã : Từ văn tự Bát nhã mà phát khởi quán chiếu Bát nhã; từ quán chiếu Bát nhã mà khế hợp với thật tướng Bát nhã. Ba điều này đều có mối quan hệ vơi nhau.
7). Phương tiện Ba la mật.
8). Nguyện Ba la mật.
9). Lực Ba la mật.
10). Trí Ba la mật.
Bốn Ba la mật này, đều do Bát nhã phân ra, hợp làm mười pháp môn Ba la mật, đây là hạnh môn của Bồ Tát tu.
Tu đạo của Bồ Tát thực hành, chẳng những có bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả, mà còn phải tu bố thí, ái ngữ, lợi hành, và đồng sự, bốn pháp nhiếp, mới là hành Bồ Tát đạo.
Bốn tâm vô lượng là gì ? Tức là :
1). Từ : Khiến cho tất cả chúng sinh được an vui.
2). Bi : Cứu tất cả khổ nạn của hết thảy chúng sinh.
3). Hỷ : Tức là hoan hỉ, hoan hỉ người ta có được chuyện vui.
4). Xả : Tức là bố thí. Bố thí vật mà người ta cần.
Bốn pháp nhiếp là gì ? Tức là :
1). Bố thí : Người thích tiền tài thì bố thí tiền tài, người thích pháp thì bố thí pháp.
2). Ái ngữ : Dùng lời diệu dàng thân thiết để an ủi họ.
3). Lợi hành : Khởi thân khẩu ý hành lợi ích chúng sinh.
4). Đồng sự : Cùng làm việc với họ, khiến cho họ có tâm hướng thiện. Phối hợp bốn pháp nhiếp và bốn tâm vô lượng mới là hành Bồ Tát đạo.
Lại phải tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tức là:
Bốn niệm xứ
Bốn chánh cần
Bốn như ý túc
Năm căn,
Năm lực
Bảy bồ đề phần
Tám chánh đạo.
Cộng lại là ba mươi bảy phẩm. Đây là chánh đạo của pháp tiểu thừa, ở trong đại thừa là pháp trợ đạo, tại Phật thừa cũng chẳng phải là chánh đạo, cũng chẳng phải là trợ đạo; ngược lại cũng là chánh đạo, cũng là trợ đạo. Vì Phật thừa là viên giáo, tức là giáo lý viên dung vô ngại, do đó có câu:
‘’Viên mãn bồ đề, quy vô sở đắc’’.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, là hai vị Bồ Tát đều thấu suốt thông đạt mười pháp Ba la mật, bốn tâm vô lượng, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chẳng có gì chướng ngại.
Lại đắc được các tịnh tam muội của Bồ Tát, đó là tam muội nhật tinh tú, tam muội tịnh quang, tam muội tịnh sắc, tam muội tịnh chiếu minh, tam muội trường trang nghiêm, tam muội đại oai đức tạng. Nơi các tam muội này, cũng đều thông đạt.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai vị Bồ Tát lại chứng được các thứ tam muội của Bồ Tát. Tam muội dịch là chánh định chánh thọ.
1). Tịnh tam muội : Tức là viên tịnh ba cấu. Ba cấu là gì ? Tức là tham, sân, si, hoặc là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Làm cho ba cấu bẩn này đều thanh tịnh.
2). Tam muội nhật tinh tú : Nhật (mặt trời) ví như thật trí, tinh (ngôi sao) ví như quyền trí, quyền thật không hai, nên gọi là tam muội nhật tinh tú.
3). Tam muội tịnh quang : Bổn tính thanh tịnh, thì hiện ra vô lượng quang minh.
4). Tam muội tịnh sắc : Bổn thân thanh tịnh thì hiện tất cả màu sắc.
5). Tam muội tịnh quang minh : Tịnh là thể của tam muội, chiếu sáng là dụng của tam muội; tức cũng là tự tánh thanh tịnh, chiếu soi tất cả.
6). Tam muội trường quang minh : Dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự trang nghiêm tam muội.
7). Tam muội đại oai đức tạng : Đại oai phục chúng, đại đức lợi sinh, tức cũng là oai đức của thập lực. Hai vị Bồ Tát này, đều hoàn toàn thông đạt bảy thứ tam muội này.
Bấy giờ, đức Phật đó muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm, và thương xót chúng sinh, mà nói Kinh Pháp Hoa này.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, muốn dẫn dắt Vua Diệu Trang Nghiêm vào Phật trí, và vì thương xót tất cả chúng sinh, cho nên giảng giải chân thật nghĩa của Kinh Pháp Hoa. Kinh này là kinh điển thành Phật, nên xưng là vua trong các kinh.
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ người mẹ, chắp tay lại bạch rằng : Xin mẹ hãy đi đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ bái. Tại sao ? Vì đức Phật đó, đang ở trong tất cả đại chúng trời người, nói Kinh Pháp Hoa, chúng ta nên đến đó để nghe.
Lúc đó, hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đến chỗ người mẹ (Tịnh Đức phu nhân), chắp tay lại thưa với mẹ rằng : ‘’Chúng con xin thỉnh mẹ đi đến đạo tràng của Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chúng con sẽ hầu theo mẹ cùng nhau đi đến chỗ Phật để gần gũi, cúng dường, lễ bái vị Phật đó. Tại sao ? Vì vị Phật đó bây giờ đang ở trong đại chúng trời người, diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cơ hội khó gặp, chúng ta nên đi nghe, không thể bỏ qua cơ hội thành Phật.’’
Người mẹ bảo các người con rằng : Cha của các con tin sâu pháp ngoại đạo Bà la môn. Các con nên đến thưa với cha, để chúng ta cùng đi với nhau.
Tịnh Đức phu nhân nói với hai người con : Cha của các con chẳng tin Phật pháp, mà tin tà pháp trường sinh bất lão, xuất huyễn nhập hóa, tin sâu chấp trước pháp Ba la môn. Các con nên đến chỗ cha nói rõ tin tức này, để chúng ta cùng đi đến chốn Phật nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay lại thưa với người mẹ rằng : Chúng con là con của đấng Pháp Vương, mà sinh vào nhà tà kiến này.
Hai vị vương tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn chắp tay lại, nói với người mẹ rằng : ‘’Chúng con thuở xưa tu Bồ Tát đạo, đã là con của đấng Pháp Vương, nhưng lại bất hạnh, sinh vào nhà tà kiến này, chúng con phải sửa đổi trở thành nhà chánh kiến.’’
Người mẹ bảo các người con rằng : Các con nên thương nghĩ đến cha của các con, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha của các con mà thấy được, thì chắc tâm sẽ thanh tịnh, hoặc nghe lời của chúng ta, mà cùng nhau đi đến chỗ đức Phật.
HT Tuyên Hóa