Mục Lục
‘’Hóa’’ là từ huyễn hóa mà ra, chứ chẳng phải thật có. Nó từ tinh thần giác ngộ triệt để của Phật hiển hiện ra. Nghĩa là gì ? Tức là muốn hàng nhị thừa phát đại tâm, xa lìa hiện chứng tất cả tướng, Phật hiện ra cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn. Kì thật, Phật vốn nói ‘’hóa thành’’ chẳng tồn tại, như nay hóa hiện ra, cho nên tên phẩm nầy là ‘’Phẩm Hóa Thành Dụ’’.
Trước hết, chúng ta phải hiểu hóa thành nầy, vốn một vật cũng chẳng có, nó là hư vọng không thật, nên gọi là hóa thành, do Phật biến hóa ra. Phật mở bày môn phương tiện nầy, để cứu độchúng sinh, đều chẳng phải là chân thật. Một thật pháp môn đại thừa mới là mục đích cứu kính.
Có người hỏi : ‘’Nếu tất cả đều không chân thật, vậy ích lợi của nó ở chỗ nào‘’ ? Nếu bạn chẳng hiểu rõ gì là không chân thật, thì bạn cũng chẳng cách chi tìm ra được chân thật. Hóa thành nầy là ví dụ pháp môn nhị thừa : Pháp của hành Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa. Vì pháp nhị thừa nầy đều là pháp của Phật phương tiện dẫn dắt, cho nên nói hóa thành nầy là vì hàng nhị thừa nói hữu dư Niết bàn chẳng cứu kính. Ý nghĩa Niết Bàn là không sinh không diệt.
Phật dùng phương tiện trí huệ mở bày ra pháp nhị thừa. Tại sao ? Ví như chúng ta đi học phải từ tiểu học đến trung học, từ trung học đến đại học. Hàng nhị thừa giống như trình độ tiểu học, Bồ Tát thừa thuộc về trình độ trung học, Phật thừa thì trình độ cao nhất, tức dũng là đại học. Thật chẳng phải đại học có thể so sánh. Phật pháp vốn chẳng có gì cao thấp, song Phật dùng pháp môn phương tiện để dẫn dắt tất cả chúng sinh, giống như trẻ con, trước hết phải để cho chúng học tiểu học, hấp thụ được kiến thức tiểu học.
Trong Phật pháp, mục tiêu và điểm chủ yếu nhất là thấy, thấy cả chúng sinh đều có Phật tính, đều sẽ thành Phật. Song, nếu Phật ban đầu nói pháp nầy cho chúng sinh nghe, thì chúng sinh chắt chắn sẽ sợ khổ chẳng muốn tin nhận, tâm sinh sợ hãi, cho nên Phật mở bày pháp môn quyền xảo phương tiện, để giáo hóa dẫn dụ chúng sinh.
Có bốn phương pháp để giải thích ý nghĩa Phật nói phẩm nầy :
1. Căn cứ nhân duyên.
2. Căn cứ về chính yếu của giáo pháp.
3. Căn cứ về căn tính của chúng sinh.
4. Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
1- Căn cứ về nhân duyên : Chúng sinh dừng lại ở trên con đường tu hành, chẳng muốn tiến bước về trước, trụ nơi pháp không, cho rằng đã đạt được chỗ cứu kính, đây là một quan niệm của hàng nhị thừa, các Ngài đạt được hữu dư Niết Bàn, làm cảnh giới cao nhất vô thượng, cho nên Phật khai quyền hiển thật, phá chấp trước của các Ngài, khiến cho các Ngài thâm nhập đại trí huệ tạng của Phật, liễu ngộ pháp chân thật chẳng có thể tính, vì hàng nhị thừa trên đường tu đạo chẳng tiến bước nữa, mà bỏ giữa đường, do đó Phật dùng pháp môn phương tiện, dùng ‘’hóa thành’’ làm ‘’thành tạm nghỉ‘’ cho hàng nhị thừa, để họ khỏi đọa lạc vào đường ác, do đó tạm thị hiện ‘’hoá thành’’.
2- Căn cứ về chính yếu của giáo pháp : Hàng nhị thừa coi giáo pháp của tiểu thừa, là giáo pháp viên mãn nhất, cho rằng hữu dư Niết Bàn là vô dư Niết Bàn, cứu kính không sinh không diệt, cho nên họ chỉ nguyện tự cầu giải thoát, mà chẳng muốn độ thoátchúng sinh, Phật thấy họ là tiêu nha bại chủng của Phật giáo, nên Phật chê trách hàng nhị thừa, chẳng giống như Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Bồ Tát rất sợ tất cả sáu nẻo chúng sinh đọa lạc vào đường ác, cho nên luôn luôn cứu độ chúng sinh, thoát khỏi biển khổ, Bồ Tát có tâm từ bi bình đẳng, có tinh thần vô úy đảo giá từ thuyền, phát nguyện ‘’độ hết tất cả chúng sinh, mới chứng Bồ đề‘’, mà Phật muốn hàng nhị thừa cũng hồi tiểu hướng đại, phát tâm đại Bồ đề, học hạnh Bồ Tát, cho nên phải vì họ nói ra giáo pháp đại thừa.
3- Căn cứ vào căn tính chúng sinh : Phật là đấng Thế Tôn đại từ đại bi, khi Phật thành đạo rồi, trong hai mươi mốt ngày, vì Bồ Tát đại thừa mà nói Kinh Hoa Nghiêm.
Lúc đó hàng nhị thừa có mắt chẳng thấy được Lô Xá Na, có tai chẳng nghe được giáo lý viên đốn, đủ thấy căn tính của hàng nhị thừa cạn hẹp. Song, Phật chẳng muốn bỏ không cứu độ một chúng sinh nào, cho nên vì hàng nhị thừa nói pháp tứ diệu đế và mười hai nhân duyên, để cho các Ngài tinh tấn tu hành,tăng trưởng căn lành, siêu phàm nhập thánh, cuối cùng mới hiển bày một thừa giáo pháp chân thật.
4- Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh: Phật quán sát tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể sẽ thành Phật, nên mới khai quyền hiển thật, nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, để phá trừ chấp trước và tâm ích kỷ tự lợi của chúng sinh, chẳng chướng ngại cơ hội các Ngài thành Phật.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : Về thuở quá khứ, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, bấy giờ có đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó tên là Hảo Thành, kiếp đó tên là Đại Tướng.
Các Tỳ Kheo ! Đức Phật đó diệt độ đến nay, rất là lâu xa.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các chúng Tỳ Kheo rằng : Trong quá khứ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn.
Lúc đó, có một vị Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ngài có thần thông quảng đại và đại trí huệ, đầy đủ mười hiệu của Phật, tức là :
Như Lai : Như như bất động, tịch chiếu thường minh, biểu thị thể tính đức.
Ứng Cúng : Những gì cần làm đã làm xong, biểu thị từ bi nguyện đức.
Chánh Biến Tri : Lý trí vô ngại, viên dung khắp hết thảy, đầy đủ chánh tri chánh kiến, chẳng có gì mà không biết, biểu hiện lý trí đức.
Minh Hạnh Túc : Minh tức là được quả bồ đề vô thượng, hạnh túc là giới huệ đầy đủ, biểu thị tu nhân đắc quả đức, cũng gọi là biểu thị thần thông đức.
Thiện Thệ Thế Gian Giải : Vào vô dư Niết Bàn, biết rõ tất cả việc hữu tình và phi hữu tình, biểu thị đoạn chứng trí đức.
Vô Thượng Sĩ : Trong tất cả chúng, Phật là vô thượng, biểu thị trụ vị đức.
Điều Ngự Trượng Phu : Dùng lời diệu hòa, lời khổ thiết, khiến cho họ vào đường lành, biểu thị giáo chủđức.
Thiên Nhân Sư : Như mặt trời chiếu khắp, hết thảy đều được lợi ích, đạo sư của trời người, biểu thị phổ lợi đức.
Phật : Ba giác cứu kính viên mãn, biểu thị giác quả đức.
Thế Tôn : Vạn đức tròn, phước đức đầy, bậc tôn kính của thế gian và xuất thế gian, biểu thị viên mãnđức.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng có một cõi nước tên là Hảo Thành, vì nhân dân trong cõi nước của Ngài đều rất thiện lương, kiếp đó tên là Đại Tướng.
Các Tỳ Kheo ! Vị Phật đó, ở trong kiếp quá khứ lâu xa không thể nói, đã vào cảnh giới Niết Bàn không sinh không diệt, thời gian bao lâu ? Phật nói ra ví dụ ở dưới đây.
Ví như tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử có người đem mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông, cách một ngàn cõi nước, mới chấm xuống một chút, lớn như hạt bụi. Rồi đi qua một ngàn cõi nước nữa, lại chấm xuống một chút. Như thế, lần lược chấm hết mực mài bằng đất đai, ý của các ông nghĩ sao ? Các cõi nước đó, hoặc thầy toán, hoặc đệ tử của thầy toán, có thể biết được bờ mé của số đó chăng ?
- Không vậy, đức Thế Tôn.
Các Tỳ Kheo ! Cõi nước của người đó đi qua, hoặc chấm mực, hoặc không chấm mực, đều nghiền hết ra làm bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Từ khi đức Phật đó diệt độ đến nay, lại lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp.
Ví như, có người dùng cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông cách một ngàn cõi nước, thì chấm xuống một chấm mực nhỏ như hạt bụi, lại trải qua một ngàn cõi nước, lại chấm xuống một chấm mực, cứ như thế chấm hết số mực đã mài ra, có tính đếm được số cõi nước chấm mực chăng ? Bạn thấy như thế nào ? Giả sử, nhà toán thuật, hoặc đệ tử của họ cùng nhau tính đếm số mực nầy, họ có tính được số mực nầy chăng ? Tất cả các vị Tỳ Kheo đều thưa : ‘’Không thể được, đức Thế Tôn‘’.
Các chúng Tỳ Kheo ! Cõi nước của người đó đi qua, có chấm mực hoặc không chấm mực, đều nghiền ra làm bụi, dùng một hạt bụi làm một kiếp, mà Phật Đại Thông Trí Thắng đã vào Niết Bàn, trải qua số kiếp lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A Tăng kỳ kiếp.
Ta dùng sức tri kiến của Như Lai, xem thuở lâu xa đó, như ngày hôm nay.
Phật là bậc Nhất thiết trí, dùng thiền định tam muội, nên đức Phật thấy kiếp lâu xa như thế, như ngày hôm nay, chẳng lâu dài.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng.
Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng Túc Tôn
Hiệu Đại Thông Trí Thắng.
Khi đó, đức Phật muốn thuật lại ý nghĩa kinh trường hàng ở trên, nên dùng kệ để nói.
Ta nhớ thuở trong đời quá khứ vô lượng vô biên kiếp số, có một vị Phật, đầy đủ phước huệ viên mãn, Phật đó hiệu là Đại Thông Trí Thắng Phật.
Như người dùng sức mài
Ba ngàn cõi đại thiên
Hết tất cả đất đai
Thảy đều làm thành mực.
Qua khỏi ngàn cõi nước
Mới chấm xuống chút mực
Lần lược chấm như thế
Hết sạch số mực đó.
Các cõi nước như thế
Chấm mực hoặc chẳng chấm
Lại nghiền ra làm bụi
Một bụi là một kiếp.
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như thế.
Ví như có người đem cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới, đều mài ra làm mực, sau đó đi qua một ngàn cõi nước, chấm xuống một chấm nhỏ, rồi lại đi qua một ngàn cõi nước, cũng chấm xuống một chấm mực, cho đến lần lược chấm hết số mực đó. Các cõi nước người đó đi qua, chấm mực hoặc chẳng chấm mực, đều nghiền ra làm bụi, mỗi hạt bụi là một kiếp, Phật Đại Thông Trí Thắng diệt độ đến nay, nhiều hơn số bụi đó vô lượng kiếp.
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh Văn Bồ Tát
Như thấy nay diệt độ.
Các Tỳ Kheo nên biết!
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu chẳng gì ngại
Thông đạt vô lượng kiếp.
Phật đầy đủ trí huệ viên dung vô ngại, đều biết Phật Đại Thông Trí Thắng và hàng Thanh Văn Bồ Tát đã diệt độ, như thấy được các Ngài hiện tại vừa diệt độ. Các Tỳ Kheo ! Các ông phải biết trí huệ của Phật rất thanh tịnh, vi tế và áo diệu, chẳng có lậu, cũng chẳng có gì quái ngại, thông đạt vô lượng số kiếp.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo ! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi đức Phật đó, ngồi đạo tràng phá ma quân rồi, sắp được đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà các Phật pháp chẳng hiện ra ở trước, đức Phật ngồi kiết già như thế một tiểu kiếp, cho đền mười tiểu kiếp, thân và tâm đều bất động, mà các Phật pháp cũng chẳng hiện ra.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Đao Lợi, trước đã vì đức Phật đó, làm tòa sư tử ở dưới cội bồ đề cao một do tuần. Đức Phật ngự lên tòa đó, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Phật ngồi lên tòa đó, thì các vị Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, khắp một trăm do tuần. Gió thơm lại đến thổi đi các hoa héo, rồi mưa xuống hoa tươi, cứ như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp, để cúng dường đức Phật. Cho đến sau khi đức Phật diệt độ, vẫn luôn luôn mưa xuống các hoa trời.
Bốn vị Tứ Thiên Vương vì cúng dường đức Phật, mà thường đánh trống trời, còn các vị trời khác, thì tấu nhạc trời, trọn mười tiểu kiếp, đến khi đức Phật diệt độ cũng lại như thế.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các Tỳ Kheo ở trong hội rằng : Phật Đại Thông Trí Thắng sống lâu đến năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi dưới Bồ Đề đạo tràng, phá tất cả ma quân rồi. Phàm là người tu đạo chứng quả, đều phải trải qua cửa ải ma khảo nghiệm. Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng phải trải qua sự khảo nghiệm. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội Bồ đề nhập định, thì ma vương phái một đámbiến thành thiếu nữ xinh đẹp, để nhiễu loạn thiền định của Phật.
Lúc đó, Phật đã đoạn sạch tất cả mọi dục niệm và vọng tưởng, xa lìa sự ràng buộc. Quán vạn sự vạn vật trong vũ trụ như mộng như huyễn, hà huống là đối với một đám mỹ nữ ở trước mặt, càng như như bất động, liễu liễu thường minh, Phật bèn nói với chúng rằng: ‘’Tuy bây giờ các người còn trẻ đẹp đẽ, song khi về già thì tóc bạc mặt nhăn xấu xí như bà lão, các ngươi bất quá chỉ là túi da hôi thối chứa đầy đồ dơ bẩn mà thôi’’ ! Khi đám mỹ nữ nghe Phật nói như thế, thì chúng biết mỹ nhân kế của chúng chẳng thành công, do đó chúng nhìn xem diện mạo của chúng, thì quả nhiên biến thành những bà già xấu xí, bỏ nhau chạy đi hết.
Trước khi tất cả các vị thành Phật đạo, đều phải trải qua sự khảo nghiệm, cho nên hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo, mới đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc đó, Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi kiết già, thân tâm bất động, nhập định, song vẫn chưa thành Phật đạo, cho nên Phật phápchưa xuất hiện ra trước, như thế trải qua một tiểu kiếp, cho đến mười tiểu kiếp, Phật pháp vẫn chưa hiện tiền.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Đao Lợi, vì Đức Phật đó, chuẩn bị thiết lập tòa sư tử dưới cội bồ đề, cao một do tuần (bốn mươi dặm). Đức Phật bèn ngồi trên tòa đó, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc đó, chư thiên Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, rải khắp nơi một trăm do tuần, một trận gió thơm thổi đến, thổi các hoa héo đi, lại mưa xuống các hoa tươi, tiếp tục như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Phật.
Sau khi Phật diệt độ rồi, chư thiên vẫn mưa hoa trời xuống như thường lệ. Khi đó, Tứ Thiên Vươngthường đánh trống trời, tấu nhạc trời để cúng dường Phật, còn chư thiên các cõi trời khác, thì thường tấu đủ thứ nhạc trời, tiếp tục như thế trọn mười tiểu kiếp, cho đến khi Phật diệt độ rồi cũng lại như thế.
Các Tỳ Kheo ! Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, các Phật pháp mới hiện ra ở trước, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo nói rằng : Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, Phật pháp mới xuất hiện ở trước, Ngài mới thật sự thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh, chuyển đại pháp luân.
Khi đức Phật đó chưa xuất gia, thì có mười sáu người con. Người con thứ nhất tên là Trí Tích. Các người con đều có đồ chơi tốt đẹp, quý báu lạ thường, nghe cha đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bỏ đồ chơi báu lạ, đi đến chốn Phật. Các bà mẹ khóc rơi lệ, đi theo tiễn đưa. Ông nội của các vị đó, là chuyển luân thánh vương, với một trăm vị đại thần, và trăm ngàn vạn ức nhân dân khác, đều cùng nhau vây quanh theo đến đạo tràng. Đều muốn gần gũi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi.
Đến rồi, thảy đều cuối đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu Phật xong rồi, một lòng chắp taychiêm ngưỡng đức Thế Tôn, dùng kệ nói rằng.
Trước khi vị Phật đó chưa xuất gia, thì Ngài có mười sáu người con. Người con cả thứ nhất tên là Trí Tích. Ngài đầy đủ đại trí huệ, mỗi người con đều có công đức báu phước đức quý khác nhau, đầy đủ đồ chơi quý báu đẹp lạ.
Song, khi các vị đó nghe người cha đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều lập tức bỏ hết các đồ chơi quý báu đẹp lạ, đi đến chỗ Phật thành đạo. Bà mẹ của các Ngài khóc lóc rơi lệ, cùng đi với các Ngài đến gặp Phật. Tại sao bà mẹ đau buồn như thế ? Vì mười sáu người con của bà ta, đều muốn bỏ mẹ đi theo Phật tu đạo.
Lúc đó, ông nội của các Ngài là Chuyển Luân Thánh Vương, dẫn một trăm vị đại thần và trăm ngàn vạn ức nhân dân, đều cùng vây quanh để đi đến đạo tràng nơi Phật thành đạo, để gần gũi Phật Đại Thông Trí Thắng, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Phật. Đến chốn Phật rồi, tất cả đều năm thể sát đất, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi một lòng chấp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Sau đó, dùng bài kệ để tán thán Phật.
Thế Tôn oai đức lớn
Vì cứu độ chúng sinh
Trong vô lượng ức kiếp
Nay mới được thành Phật.
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp.
Thân thể và tay chân
Vắng lặng yên chẳng động
Tâm Phật thường lặng lẽ
Chưa từng có tán loạn.
Rốt ráo hằng tịch diệt
An trụ pháp vô lậu
Ngày nay thấy Thế Tôn
An ổn thành Phật đạo.
Chúng con được lợi lành
Rất hớn hở vui mừng
Chúng sinh thường khổ não
Đui mù không đạo sư.
Chẳng biết đạo dứt khổ
Không biết cầu giải thoát
Ngày đêm thêm nẻo ác
Tổn giảm chúng chư thiên.
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe tên Phật
Nay Phật được vô thượng
Đạo an ổn vô lậu.
Chúng con và trời người
Vì được lợi lành lớn
Cho nên đều cuối đầu
Quy mạng đấng Vô Thượng.
Đức Thế Tôn là bậc có đại oai đức nhất trong thế gian, vì cứu độ tất cả sáu nẻo chúng sinh chịu khổ trong mười phương, mà trải qua vô lượng ức kiếp trang nghiêm vạn hạnh, mới được thành Phật đạo, đầy đủ viên mãn thệ nguyện đã phát ra từ trước. Cho nên, nói: Nếu ai chân chánh muốn phát tâm tu đạo, thì phải phát đại thệ nguyện. Mười phương chư Phật thành tựu Phật quả, đều phát thệ nguyện vô thượng và tâm bồ đề rộng lớn, tại sao chúng ta ở trong sự tu đạo chịu khổ chẳng được ? Hoặc sinh tâm thối chuyển ? Vì chúng ta chẳng thật sự đem chân tâm ra để tu đạo, chưa từng phát tâm thệ nguyện kim cang kiên cố Ba la mật.
Phật là bậc cát tường thù thắng nhất, vô thượng nhất, rất hiếm có trên thế gian. Phật hay nhập vào thiền định thâm sâu, như thế trải qua mười tiểu kiếp thời gian lâu dài, song thân thể tay chân của Phật vẫn vắng lặng an nhiên chẳng động, tâm của Ngài xa lìa tất cả điên đảo mộng tưởng, chẳng có ô nhiễm một chút bụi, cho nên chẳng tán loạn.
Phật rốt ráo đắc được viên giác vĩnh hằng, an trụ ở trong thường tịch quang, lấy pháp vô lậu, mở bày hàng nhị thừa. Như hôm nay chúng con được thấy Đức Thế Tôn an ổn thành tựu Phật đạo, vì đắc được lợi ích tốt lành, cho nên chúng con biểu lộ vui mừng hớn hở.
Tất cả sáu nẻo chúng sinh thường chịu các sự thống khổ bức bách, như người mù, mất đi đạo sư dẫn dắt, chẳng biết con đường lìa khổ, chẳng biết làm thế nào để ra khỏi sinh tử luân hồi, cứ tạo tội nghiệpchồng chất. Chúng sinh điên đảo trầm luân ở trong đường ác, bị vô minh che lấp đi trí huệ Phật tính, tội nghiệp chướng ngại, cho nên chẳng nghe được hồng danh của Đức Phật.
Như nay Phật đắc được vô thượng, Phật đạo an ổn, chúng con và tất cả trời người như tối có đèn, đều được lợi ích rất lớn, cho nên chúng con năm thể sát đất, cuối đầu đảnh lể, một lòng quy mạng đấng Thế Tôn Vô Thượng.
Khi chúng ta một lòng quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tức là bắt đầu học tập Phật pháp, trước hết phải khử trừ ‘’ngã tướng‘’. Ví như phải xả mình vì người, chẳng tồn tâm tổn người lợi mình .v.v. Tất cả phiền não đều do chấp trước vào ngã tướng (tướng ta) tham dục mà khởi, song phải làm cho được chẳng còn có tướng ta, thật không dễ dàng. Cho nên, chúng ta phải đem thân tâm tính mạng quy y Tam Bảo, nương theo pháp của Phật nói mà tu hành, thì nhất định phải xả bỏ ngã chap, và ba độc tham sân siphiền não, được vô vi khoái lạc tự tại hằng thường, chẳng còn thọ thân sau nữa.
Bấy giờ, mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi, bèn thỉnh cầu đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, đều thưa rằng : Đức Thế Tôn thuyết pháp được nhiều sự an ổn, thương xót lợi íchcác trời người, lại nói kệ rằng.
Khi mười sáu vị vương tử khen ngợi Đức Phật rồi, các Ngài lại thỉnh Phật chuyển bánh xe diệu pháp. Chuyển bánh xe pháp như thế nào ? Diễn nói bốn diệu đế, mười hai nhân duyên, cho đến sáu độ Ba la mật kinh điển giáo nghĩa, giải nói nghĩa lý Phật pháp, đều là chuyển bánh xe pháp; còn có nhiều phương tiện lìa khổ được vui, tứ thiền bát định .v.v. Chuyển bánh xe pháp như hộ trì Tam bảo, khen ngợi Tam Bảo, tuyên dương Phật pháp, khuyên người khác tín ngưỡng Phật giáo .v.v., đó đều là chuyển bánh xe pháp lợi ích chúng sinh.
Mười sáu vị đồng tử lại dị khẩu đồng âm nói: ‘’Đức Thế Tôn ! Thỉnh Ngài vì chúng con nói Phật pháp vô thượng, khiến cho chúng con tất cả chúng sinh được an ổn, xin Ngài thương xót và lợi ích tất cả trời người.’’ Lại nói kệ khen ngợi Phật.
Thế Tôn chẳng ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Được trí huệ vô thượng
Xin vì thế gian nói.
Độ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sinh
Vì phân biệt hiển bày
Khiến được trí huệ Phật.
Nếu chúng con thành Phật
Chúng sinh cũng như thế
Thế Tôn biết chúng sinh
Nghĩ gì trong thâm tâm.
Cũng biết họ nguyện gì
Lại biết sức trí huệ
Ưa muốn và tu phước
Nghiệp tạo ra đời trước.
Thế Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượng.
Phật là đấng Thánh hùng xuất thế gian. Chúa Đại hùng thế gian không thể sánh với đại Thánh Tôn ! Ba A Tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng ruộng phước, vạn đức trang nghiêm tướng tốt, đầy đủ oai nghi. Phật là đại Thánh hùng vô thượng của thế gian, cho nên xưng là ‘’Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn‘’. Vì Phật trong ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, trong trăm kiếp vun bồi tướng tốt trang nghiêm viên mãn, Phật đắc được trí huệ vô thượng, cho nên Phật vì tất cả chúng sinh thế gian nói ra pháp vi diệu, khiến cho chúng con xa lìa biển khổ, sớm lên bờ giác ngộ. Vì nhân duyên của mười hai loài chúng sinh, đều hiển bày khác nhau, khiến cho chúng con đắc được trí huệ vô thượng, Phật quả bồ đề.
Nếu chúng con đều thành Phật đạo, thì tất cả sáu nẻo chúng sinh thảy đều như thế. Đức Thế Tôn biết rõ tâm của tất cả chúng sinh, nghĩ gì và nguyện gì, Phật biết hết sức trí huệ của họ có bao nhiêu, nghĩ muốn được bao nhiêu thiện lạc, tích tập bao nhiêu phước đức, tạo bao nhiêu tội nghiệp, cho nên Phật đều biết đều thấy, nên Phật chuyển bánh xe pháp.
Phật bảo các Tỳ Kheo ! Khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm vạn ức thế giới của chư Phật, có sáu thứ chấn động. Trong các cõi nước đó, chỗ tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu đến, mà nay đều sáng rực rỡ. Chúng sinh ở trong đó đều thấy nhau, đều nói rằng : Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh ? Và cung điện của chư Thiên, cho đến cung điện của Phạm thiên, trong các cõi đó, đều có sáu thứ chấn động. Quang minh chiếu khắp đầy các thế giới, sáng hơn ánh sáng của chư Thiên.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo rằng: ‘’Khi Phật Đại Thông Trí Thắng được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Cháng Giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm trăm vạn ức thế giới của chư Phật, đều hiện sáu thứ chấn động.
Lúc đó, trong tất cả cõi nước đó, phàm là chỗ nào tối tăm, ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu đến được, thì nay đều xuất hiện ánh sáng. Chúng sinh ở đây thấy rõ được tất cả, họ bèn nói rằng: ‘’Chúng sinh từ đâu đến’’? (kì thật trước kia họ sống trong bóng tối, có cũng chẳng thấy, cho nên nói chẳng có chúng sinh tồn tại. Bây giờ, bỗng có ánh sáng, mới thấy có chúng sinh khác).
Lại nữa, ở trong phạm vi những cõi nước đó, tất cả Thiên cung cho đến cung điện của Phạm thiên, đều hiện sáu thứ chấn động, được quang minh chiếu khắp, đầy các thế giới. Quang minh đó sáng hơn tất cả quang minh của chư Thiên, hơn ánh sáng của mặt trời mặt trăng mấy ngàn vạn lần.
Bấy giờ, ở phương đông năm trăm vạn ức cõi nước, các cung điện của cõi trời Phạm thiên, có ánh sáng chiếu sáng gấp bội hơn ánh sáng thường. Các vị Phạm Thiên Vương đều nghĩ : Hôm nay ánh sáng chiếu đến cung điện, từ xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà hiện tướng nầy ? Lúc đó, các Phạm Thiên Vương đều đi đến với nhau cùng bàn về việc nầy. Khi đó, trong chúng có một vị Phạm Thiên Vương, tên là Cứu Nhất Thiết, vì các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng.
Khi đó, ở phương đông các cung điện của trời Phạm Thiên, trong năm trăm vạn ức cõi nước, đều được ánh sáng chiếu sáng, ánh sáng đó hơn ánh sáng thường gấp ngàn vạn lần.
Lúc đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương đều sinh ra hoài nghi : ‘’Như hôm nay cung điện của chúng tacó ánh sáng nầy, từ xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà nay hiện ra tướng điềm lành nầy’’?
Do đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều tự tìm đến cùng nhau, thảo luận về việc ánh sáng chiếu đến cung điện. Lúc đó, trong chúng trời Phạm Thiên Vương, có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Cứu Nhất Thiết, vì tất cả chúng Phạm Thiên mà nói ra bài kệ.
Các cung điện chúng ta
Ánh sánh xưa chưa có
Đây là nhân duyên gì ?
Thảy đều cùng nhau tìm.
Là trời đại đức sinh
Hay Phật hiện ra đời ?
Mà ánh sáng lớn nầy
Chiếu khắp trong mười phương.
Các cung điện của chúng ta được ánh sáng chiếu đến, đây là ánh sáng không thể nghĩ bàn chưa từng có. Đây là nhân duyên gì ? Chúng ta đều cùng nhau đi tìm ánh sáng nầy từ đâu đến ? Theo ý của tôi thì, đây có thể là một vị đại đức Thánh nhân ra đời, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời, nên mới có ánh sáng như thế, chiếu khắp mười phương thế giới.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức các cõi nước, cùng với cung điện, ai nấyđều dùng túi y đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến hướng tây để tìm tướng ánh sáng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, tại đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư Thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử, thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương đông, đều mang theo cung điện của họ cùng bay đi. Phàm là người trời đều có thể bay đi tự tại, chẳng những như thế, mà họ còn có thể mang theo cung điện của họ cùng đi, rất thuận tiên tự tại, và họ còn dùng túi đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến phương tây, để tìm nguồn gốc tướng ánh sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử tại đạo tràng dưới cội Bồ đề.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thác Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người .v.v... đều cùng nhau đến cung kính vây quanh Đức Phật. Họ lại thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp.
Tức thời, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ đức Phật, nhiễu trăm ngàn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật, hoa rải xuống nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cây bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường hoa xong, ai nấy đều đem cung điện dâng lên đức Phật đó, mà bạch rằng : Xin đức Phật thương xót lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin đức Phật hãy nhận để ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Thế tôn rất ít có
Khó có thể gặp được
Đủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả.
Đại sư của trời người
Thương xót nơi thế gian
Các chúng sinh mười phương
Khắp đều được lợi ích.
Chúng con đều đến từ
Năm trăm vạn ức cõi
Xả bỏ vui thiền định
Vì cúng dường đức Phật.
Chúng con phước đời trước
Cung điện rất tốt đẹp
Nay dâng lên Thế Tôn
Cúi xin thương nhận ở.
Khi đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều đảnh lễ dưới chân đức Phật, cung kính đi nhiễu chung quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời của họ rải ở trên thân Đức Phật, hoa rải ra nhiều như núi Tu Di, lại dùng hoa trời để cúng dường cây Bồ đề của Phật. Cây Bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường như thế rồi, các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều đem cung điện mà họ ưa thích nhất, để dâng cúng Đức Phật.
Sau đó nói: ‘’Chư Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích cho chúng con mà nhận cung điện của chúng con dâng cúng.’’ Nói xong rồi, tất cả vị Phạm Thiên Vương đều quỳ xuống ở trước Phật, một lòng đồng tiếng, nói kệ.
Đức Thế Tôn ! Ngài là đấng Thánh Tôn ít có nhất trên đời, rất khó gặp nhất, Phật đầy đủ vô lượng công đức nên thành Phật. Chúng ta tất cả chúng sinh, cũng phải đầy đủ vô lượng công đức, mới có cơ hội gặp được Phật. Phật hay cứu hộ tất cả chúng sinh, Ngài là đạo sư của trời người, Phật hay từ bithương xót tất cả chúng sinh thế gian, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh.
Chúng con tất cả các Phạm Thiên Vương, từ năm vạn ức cõi nước đến đây, vì muốn tìm ánh sáng nầy, cho nên bỏ sự vui thiền định thâm sâu. Nếu người tu đạo, một ngày chẳng chứng được cảnh giới vui thiền định, thì thái độ đều cẩu thả, người chân chánh đắc được vui thiền định, thì rất hoan hỉ tham thiềnđả tọa. Thấy tất cả thế gian vạn sự vật đều rất an lạc, mà các chư Thiên nầy, tuy chứng được thiền định, song chưa dứt sinh tử thoát khỏi tam giới, do đó, khi họ thấy được ánh sáng nầy, ai nấy cũng đều muốn bỏ vui thiền định, để đi tìm nguyên do của ánh sáng nầy, cũng vì muốn cúng dường Phật mà đến, lại nói với Phật : Chúng con thuở xưa tại nhân địa, tu các phước báu, mới có được cung điện tốt đẹp trang nghiêm nầy, hiện nay gặp được Phật, chúng con dâng cúng cung điện nầy lên Đức Phật, cúi xin Phật thương xót tiếp nhận sự cúng dường của chúng con.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều nói : Cúi xin đức Thế Tônchuyển bánh xe pháp, độ thoát cúng sinh, mở đường Niết Bàn. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ rằng.
Thế hùng Lưỡng Túc Tôn
Cúi xin diễn nói pháp
Dùng sức đại từ bi
Độ chúng sinh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói bài kệ khen Đức Phật rồi, họ cùng nhau bạch rằng: ‘’Cúi xin Đức Thế Tôn hãy vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp, độ thoát tất cả chúng sinh chịu khổ, xin Phật từ bimở con đường Niết bàn‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương lại một lòng đồng thanh nói ra bài kệ.
Đức Thế Tôn ! Ngài là đấng Đại Thánh Hùng vô thượng trong thế gian, vạn đức viên mãn, phước huệđều đủ. Cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng con chúng sinh diễn nói diệu pháp, hy vọng nhờ sức đại từ bi của Đức Thế Tôn, để độ thoát sự khổ ràng buộc của chúng con và chúng sinh, đều ra khỏi biển khổ sinh tử, sớm lên bờ giác ngộ.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.
Lại nữa, các Tỳ Kheo ! Phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại PhạmVương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, thảy đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau đi đến bàn về việc nầy.
Lúc đó, trong chúng đó có một vị Đại Phạm Thiên Vương, tên là Đại Bi, vì các chúng Phạm Thiênmà nói kệ rằng :
Việc nầy nhân duyên gì ?
Mà hiện tướng như thế
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chưa từng có.
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời ?
Chưa từng có tướng nầy
Nên cùng một lòng tìm.
Qua ngàn vạn ức cõi
Theo luồng sáng tìm đến
Phần nhiều Phật ra đời
Độ thoát chúng sinh khổ.
Lúc đó, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời, sự thỉnh cầu của các vị Phạm Thiên Vương.
Phật nói : Ở phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương, đều thấy các cung điện của họ, đều hiện ánh sáng chiếu sáng, từ xưa chưa từng có, do đó họ đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu. Họ tụ lại với nhau cùng thảo luận vấn đề nầy.
Lúc đó, ở trong chúng hội đó, có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Đại Bi, vì tất cả các Phạm Thiên Vương, mà nói ra bài kệ.
Việc nầy rất là thù thắng, cho nên hiện tướng điềm tốt nầy, chiếu đến cung điện của chúng ta. Ánh sáng nầy từ xưa chưa từng có, chắc chắn là có vị đại đức từ trên trời hàng sinh xuống, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời. Đây là cảnh giới chúng ta chưa từng thấy qua, nên cùng nhau đi tìm nguyên do.
Do đó, trải qua ngàn vạn ức cõi nước, để đi tìm nguyên nhân của ánh sáng đó. Theo sự suy đoán của tôi, phần nhiều chắc chắn là có vị Phật xuất hiện ra đời, để độ thoát tất cả chúng sinh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, đều mang theo cung điện đi với, ai nấy cũng đều dùng túi đựng đầy hoa trời, cùng đi đến phương tây bắc, để tìm tướng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Lúc đó, ở phương đông nam, năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương đều mang theo cung điện của họ, cùng nhau đi tìm ánh sáng nầy. Mỗi vị Đại Phạm Thiên Vương, đều dùng túi đựng đầy hoa trời, chuẩn bị dùng để rải hoa cúng dường mười phương chư Phật, họ đều đi về hướng tây bắc để tìm tướng ánh sáng đó.
Lại thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội Bồ đề. Tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người .v.v., đều cung kính vây quanh Đức Phật, lại thấy mười sáu người con của Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe diệu pháp.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Phậttrăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dườngđức Phật đó, mà bạch rằng : Cúi xin đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin đức Phật hãy nhận.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Lúc đó, hết thảy các vị Đại Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân của Đức Phật, và nhiễu trăm ngàn vòng. Nhiễu Phật xong rồi, thì dùng hoa trời của họ mang đến rải lên thân Phật, hoa rải lên cúng Phậtnhiều như núi Tu Di, chẳng những cúng dường Đức Phật, mà còn cúng dường cây Bồ đề của Phật.
Cúng dường rồi, mỗi vị Đại Phạm Thiên Vương đều đem cung điện của họ mang đến, dâng lên cúng dường Phật Đại Thông Trí Thắng, và nói : ‘’Cúi xin đức Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích chúng con, hiện nay cung điện dâng cúng là cung điện báu đẹp của chúng con, xin Phật hãy nhận lãnh‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, ở trước đức Phật một lòng đồng cất tiếng, dùng kệ để khen ngợi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng.
Thánh chúa Thiên trung vương
Tiếng ca lăng tần già
Thương xót các chúng sinh
Chúng con nay kính lễ.
Thế Tôn rất ít có
Lâu xa hiện một lần
Một trăm tám mươi kiếp
Trải qua chẳng có Phật.
Đầy dẫy ba đường ác
Chúng chư thiên giảm bớt
Nay Phật hiện ra đời
Mắt sáng của chúng sinh.
Chỗ thế gian nương tựa
Cứu hộ thảy mọi loài
Cha lành của chúng sinh
Thương xót làm lợi ích.
Chúng con nhờ phước xưa
Nay được gặp Thế Tôn.
Phật cũng gọi là Thánh Chúa, tức là Thánh Trung Thánh, Thiên Trung Thiên, cho nên còn gọi là Thiên Trung Vương. Ca lăng tần già là tiếng Phạn, dịch là "tiếng chim hay". Ở thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà có loài chim nầy, thường dùng tiếng hay của nó, để tuyên dương pháp âm, tiếng của Phật thuyếtpháp khiến cho người thích nghe, ai nghe được thì tâm tĩnh lặng, cũng giống như nghe được tiếng hay tốt của loài chim nầy, mà âm thanh đại từ bi của Phật thương xót tất cả chúng sinh.
Chúng con năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương, nay hướng về đức Thế Tôn kính lễ. Đức Thế Tôn! Ngài rất là ít có, rất khó được gặp ! Vì Phật trải qua số kiếp lâu xa, mới xuất hiện ra đời. Theo chỗ chúng con biết, thì trong một trăm tám mươi kiếp đã qua, đều chẳng có Phật xuất hiện ra đời. Do đó, chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ngày càng nhiều, song chư thiênchúng con ngày càng ít. Bây giờ, Phật xuất hiện ra đời, mà trước kia chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác đều vì họ chẳng nghe được pháp âm, chẳng phân biệt được thị phi trắng đen, tạo các nghiệp ác, vì chẳng có ai dẫn dắt họ, cho nên họ mê hoặc ở trong đen tối, Phật là thiện tri thức mắt sáng của tất cả chúng sinh, cho nên khi Phật xuất hiện ra đời, thì tất cả chúng sinh, đều được Phật chỉ dẫn con đườngthoát khỏi đen tối nguy hiểm. Chúng sinh trong ba đường ác sẽ giảm bớt, còn chúng sinh ba đường lành sẽ thêm nhiều.
Tất cả chúng sinh thế gian đều về nương tựa với Phật, hướng về bồ đề giác đạo, Phật cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên Phật là cha đại từ bi của chúng con, còn chúng con đều là con bất hiếu của Phật.
Song, Phật rất thương xót lợi ích chúng con, nguyện độ chúng con sớm lên bờ giác. Chúng con các chư Thiên, đều vì đời trước đã từng làm công đức và việc lành, cho nên đời nầy mới may mắn được gặp Phật. Hiện nay chúng con nghe được pháp của Phật nói, đều do nhân duyên căn lành đời trước.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch rằng : Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển bánh xe pháp, độ thoát chúng sinh.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Đại Thánh chuyển pháp luân
Hiển bày các pháp tướng
Độ chúng sinh khổ não
Khiến được vui mừng lớn.
Chúng sinh nghe pháp nầy
Đắc đạo hoặc sinh thiên
Các đường ác giảm dần
Người khéo nhẫn thêm nhiều.
Lúc đó, hết thảy các vị Đại Phạm Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương đông nam, dùng kệ khen ngợi đức Phật rồi, bèn bạch Phật rằng : ‘’Hiện nay chúng con chỉ mong cầu Phật thương xót tất cả chúng sinh, vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp, dạy chúng con như thế nào để liễu sinh thoát tử, ly khổ đắc lạc.’’ Khi đó, tất cả Đại Phạm Thiên Vương một lòng đồng cất tiếng nói ra bài kệ.
Hiện tại, chúng con thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe pháp, để giáo hóa chúng sinh. Chỉ rõ cho chúng con thật tướng của tất cả pháp, để độ thoát chúng sinh khổ não, khiến cho họ đều được vui mừng lớn. Chúng sinh nghe được pháp của Phật nói, thì sẽ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, nếu hay tu đạo, thì có thể sinh về ba đường lành, còn chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác sẽ giảm bớt, người hay tu nhẫn nhục, giữ năm giới tu thập thiện, thì ngày càng thêm nhiều.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.
Lại nữa, các Tỳ Kheo ! Ở phương nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có tướng điềm lành nầy, ai nấy đều vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau tụ lại luận bàn việc nầy. Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy ?
Lúc đó, trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng :
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chiếu sáng rực
Đây là nhân duyên gì ?
Tướng nầy phải tìm cầu.
Trải qua trăm ngàn kiếp
Chưa từng thấy tướng nầy
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời?
Lúc bấy giờ, Phật Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phật bèn nói: ‘’Nầy các Tỳ Kheo ! Các Đại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, ai nấy đều nhìn thấy cung điện của mình ánh sáng chiếu soi, từ trước chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, do đó họ đều vui mừnghớn hở, sinh tâm ít có, đều tụ tập lại cùng nhau thảo luận về việc nầy : Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy ? Lúc đó, ở trong hội có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì chúng hội Đại Phạm Thiên Vương mà nói ra bài kệ.
Hiện nay cung điện của chúng ta ở, phát ra ánh sáng rất sáng rực, ánh sáng nầy chưa từng thấy qua, chắt chắn là có nhân duyên lớn, cho nên chúng ta phải đi tìm nhân duyên của tướng điềm lành nầy. Vì trong trăm ngàn kiếp quá khứ, chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, đại khái là có bậc đức hạnhlớn, từ trên trời sinh xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Bấy giờ, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, đều mang theo cung điện của họ, và dùng túi y đựng đầy hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, tìm tướng ánh sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc bấy giờ, các vị Đại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, đều mang theo cung điện của họ, và y trời của họ, thảy đều đầy ắp hoa trời, thân thể đều phát ra đủ thứ hương thơm, đây là phước báu của họ, lần nầy họ cũng dùng túi y mang đầy đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, để tìm tướng ánh sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề, thành đạo mà phát ra vô lượng ánh sáng không thể nghĩ bàn nầy.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, (thần nhạc trời), Khẩn Na La (chim đại bàng cánh vàng), Ma Hầu La Già (đại mãng xà), người, chẳng phải người, hết thảy đều cung kính vây quanh Đức Phật.
Lại thấy mười sáu vị vương tử của Phật. Mười sáu vị vương tử nầy, đều đời đời kiếp kiếp phát nguyệnlàm con của Phật, hộ trì đạo tràng. Khi Phật thành đạo rồi, lại vì tất cả chúng sinh, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, đó đều là một thứ nhân duyên thù thắng.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường đức Phật đó, mà bạch Phật rằng : Cúi xin Phật thương xót, lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Phật hãy nhận ở. Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanhnói bài kệ rằng.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, thảy đều năm thể (đầu, hai tay, hai chân) sát đất, cung kính đảnh lễ Đức Phật, nhiễu Phật trăm ngàn vòng, lại dùng hoa trời mà họ mang đến rải lên Đức Phật, hoa rải nhiều như núi Tu Di, và họ còn cúng dường cây bồ đềcủa Phật. Cúng dường hoa rồi, họ lại dâng cung điện quý báu nhất của họ, để cúng dường đức PhậtĐại Thông Trí Thắng, sau đó nói : ‘’Cúi xin đức Thế Tôn đại từ bi thương xót chúng con, tất cả chúng sinh, lợi ích cho chúng con, cung điện của chúng con dâng cúng đây, xin Đức Phật từ bi nhận lấy, thỉnh Đức Phật vào ở trong cung điện nầy.’’
Lúc đó, tất cả Đại Phạm Thiên Vương đều ở trước Phật, một lòng đồng thanh dùng kệ, để khen ngợi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai.
Thế Tôn rất khó gặp
Bậc phá các phiền não
Qua trăm ba mươi kiếp
Nay mới gặp một lần.
Các chúng sinh đói khác
Đều thấm nhuần mưa pháp
Xưa chưa từng gặp Phật
Bậc vô lượng trí huệ.
Như hoa ưu đàm bát
Hôm nay mới gặp được
Các cung điện chúng con
Nhờ ánh sáng nghiêm sức.
Thế Tôn đại từ mẫn
Cúi xin hãy nhận ở.
Trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được Phật. Phật là bậc đại giác ngộ, đã phá trừ tất cả vô minh phiền não, tức cũng là bậc đại từ bi, hay phá tất cả phiền não của chúng sinh. Chúng con trải qua một trăm ba mươi đại kiếp đến nay, mới được gặp Phật, tất cả chúng sinh đói khác ở trong ba đường ác, đều được đượm nhuần mưa pháp của Phật, thuở xưa chưa từng gặp được Phật Pháp Tăng. Đức Thế Tôn là bậcvô lượng vô biên đại trí huệ, như hoa Ưu Đàm Bát chẳng dễ gì gặp được, mà chúng con nay gặp được Phật. Cung điện mà chúng con ưa thích đây, nay gặp được Phật, đều nguyện xả bỏ cung điện, nhờ quang minh của Phật trang nghiêm cung điện chúng con, thỉnh cầu đức Thế Tôn phát tâm đại từ bithương xót, xin hãy nhận cung điện nầy.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng : Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả thế gian chư Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa môn, Bà la môn, đều được an ổn mà được giải thoát.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh, nói bài kệ rằng.
Cúi xin Thiên Nhân Tôn
Chuyển pháp luân vô thượng
Đánh vang trống pháp lớn
Thổi lên ốc pháp lớn.
Rưới khắp mưa pháp lớn
Độ vô lượng chúng sinh
Chúng con đều thỉnh cầu
Nói tiếng pháp sâu xa.
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương dùng kệ khen ngợi Phật rồi, họ khác miệng cùng tiếng nói: ‘’Cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng con, tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe diệu pháp, khiến cho tất cả thế gian, các Thiên chúng, ma, Phạm vương, Sa môn, Bà La môn, đều được an ổn và khoái lạc, và được thoát khỏi khổ ba đường ác‘’.
Lúc đó, tất cả chúng Đại Phạm Thiên Vương, một lòng đồng thanh dùng kệ để khen ngợi Phật : Chúng con cúi xin Phật Thế Tôn, được trời người tôn kính, vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng, đánh trống pháp lớn, thổi ốc pháp lớn. Như âm thanh nầy sẽ vang khắp tận hư không, thậm chí chư Thiên ở trên trời, đều nghe được pháp âm nầy rất rõ ràng. Mưa pháp vũ xuống khắp mọi nơi, chỉ có pháp vi diệu của Phật, mới độ thoát được vô lượng vô biên chúng sinh. Chúng con thảy đều một lòng quy y Phật, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, xin Phật hãy vì chúng con diễn nói pháp âm sâu xa nhất.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. Phương tây nam cho đến phương dưới, cũng lại như thế.
Bấy giờ, phương trên có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Thiên Vương, đều tự thấy ánh sáng, chiếu sáng rực cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, đều tụ lại cùng nhau bàn về việc đó. Vì nhân duyên gì, mà cung điện của chúng ta có ánh sáng đó ?
Lúc đó, ở trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương, tên là Thi Khí, vì các chúng Đại Phạm Thiên, mà nói bài kệ rằng.
Nay bởi nhân duyên gì ?
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chiếu sáng rực
Trang nghiêm chưa từng có.
Diệu tướng lạ như thế
Xưa nay chưa nghe thấy
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời ?
Bấy giờ, Phật Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phương tây nam cho đến phương dưới cũng đều như thế. Lúc đó, phương trên có các vị Đại Phạm Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi nước, đều thấy tướng ánh sáng chiếu sáng cung điện của họ, từ xưa chưa từng có, thấy rồi rất vui mừng hớn hở, sinh tâm ít có. Họ đều muốn biết nguyên do cảnh giới thù thắng nầy, do đó các vị Đại Phạm Thiên Vương cùng nhau tụ lại để thảo luận, vì nhân duyên gì mà cung điện của họ đều có ánh sáng nầy ?
Lúc đó, ở trong hội đó có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí, vì tất cả chúng Đại Phạm Thiênmà nói ra bài kệ.
Hiện nay, vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta, được ánh sáng chiếu rực rỡ trang nghiêm từ xưa chưa từng có. Tướng tốt vi diệu nầy, xưa nay chúng ta chưa từng thấy qua, đại khái chắt là vị đại đức ở trên trời sinh xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều mang theo cung điện của họ, và dùng túi y đựng đầy các hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới, để tìm tướng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh đức Phật, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ, ở phương trên có năm trăm vạn ức Đại Phạm Thiên Vương, dùng kệ khen Đức Phật rồi, họ bèn mang theo cung điện và dùng túi y đựng đầy đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới để tìm nguyên nhân tướng nầy. Kết quả, họ thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề.
Hết thảy tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh đức Phật. Lại thấy mười sáu người con của đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Phậttrăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cũng dùng để cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng cúng dường đức Phật đó, mà bạch rằng : Cúi xin đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây xin đức Phật hãy nhận ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương đều đảnh lễ Đức Phật, lại nhiễu quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật, hoa rải cúng Phật vô lượng vô biên nhiều như núi Tu Di, chẳng những họ dùng hoa để cúng dường Phật, mà họ còn cúng dường cây Bồ đề của Phật.
Dùng hoa cúng dường xong rồi, ai nấy đều đem cung điện quý báu nhất của họ, dâng lên cúng dườngđức Phật Đại Thông Trí Thắng mà bạch rằng: ‘’Chúng con một lòng xin Phật thương xót chúng con, lợi ích chúng con, chúng con nguyện làm công đức trồng phước ở trước Tam Bảo, xin Đức Phật hãy nhận cung điện nầy để ở.’’
Lúc đó, các vị Đại Phạm Thiên Vương ở trước Phật một lòng đồng thanh dùng kệ, để khen ngợi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai.
Lành thay gặp được Phật
Đấng Thánh Tôn cứu đời
Thường ở ngục tam giới
Độ thoát các chúng sinh.
Thiên Nhân Tôn trí khắp
Thương xót loài quần mê
Khai mở cửa cam lồ
Rộng độ hết tất cả.
Thuở xưa vô lượng kiếp
Trải qua chẳng có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường đen tối.
Ba đường ác thêm nhiều
A tu la cũng thịnh
Chúng chư thiên bớt đi
Chết nhiều đọa đường ác.
Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường làm những việc ác.
Chúng con cảm thấy may mắn muôn phần, được gặp Phật. Phật là đấng Thánh Tôn cứu vớt chúng sinhkhổ ở thế gian, hay khiến tất cả chúng sinh thoát ra khởi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, ba cõi ngục tù liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui. Phật cũng là bậc Đạo Sư đầy đủ đại trí huệ, từ bi, khắp hết thảy trời người, thương xót tất cả chúng sinh hữu tình vô tình, phát tâm đại từ bi, khai mở pháp môn cam lồ, khiến cho tất cả chúng sinh được nghe pháp yếu mà bỏ mê về giác.
Phật là từ bi bình đẳng, cho nên rộng độ vô lượng Hằng hà sa số tất cả chúng sinh. Thuở xưa trải quavô lượng vô biên đại kiếp, chưa từng có Phật xuất hiện ra đời.
Lúc đó, mười phương thế giới đều một màng tối u ám chẳng có ánh sáng, chúng sinh đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh càng ngày càng nhiều, và đường A tu la cũng rất hưng thịnh, vì chúng sinh chỉ biết tạo nghiệp, chẳng làm mười điều lành, chỉ làm mười điều ác, cho nên chúng chư thiên càng ngày càng giảm bớt. Do đó, đủ thấy đa số chúng sinh chết rồi, đều đọa vào ba đường ác.
Vì tất cả chúng sinh chưa từng thấy Phật, chưa từng nghe pháp, cho nên cũng chẳng biết tu hành như thế nào, chẳng biết giữ giới luật, rộng tu pháp lành, chỉ biết nhận giặc làm con, nhận đen làm trắng, tạo ra nhiều nghiệp ác, thì tự nhiên trồng xuống nhiều nhân ác.
Sắc lực và trí huệ
Thảy đều giảm bớt dần
Vì tội nghiệp nhân duyên
Mất vui cùng tưởng vui.
Trụ trong pháp tà kiến
Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong đường ác.
Phật là mắt thế gian
Lâu xa mới xuất hiện
Thương xót các chúng sinh
Nên mới hiện ra đời.
Vượt khỏi thành chánh giác
Chúng con rất sung sướng
Và các chúng sinh khác
Vui mừng chưa từng có.
Các cung điện chúng con
Nhờ ánh sáng trang nghiêm
Nay đem dâng Thế Tôn
Xin hãy thương nhận ở.
Nguyện đem công đức nầy
Hồi hướng khắp tất cả
Chúng con và chúng sinh
Đều cùng thành Phật đạo.
Do đó, chúng con thể suy lực yếu, trí huệ cũng ngày càng giảm bớt, đó đều do nhân duyên tạo ra quá nhiều tội ác. Tự tính vốn an lạc cũng mất đi, lạc vào tà tri tà kiến, chẳng biết thiện tri thức, chẳng được Phật giáo hóa, đời đời kiếp kiếp đều luân hồi ở trong ba đường ác. Phật là thiện tri thức mắt sáng của chúng ta, lâu xa nhiều kiếp mới xuất hiện ra đời. Phật vì thương xót tất cả chúng sinh mà xuất hiện ra đời, tu đạo được thành chánh giác. Chúng con và tất cả chúng sinh đều rất sung sướng, từ xưa chưa từng vui mừng và khen ngợi như thế. Cung điện của chúng con, nhờ ánh sáng của Phật chiếu sáng trang nghiêm hơn so với lúc trước, cho nên hiện nay chúng con xin dâng lên cúng dường Đức Phật, xin Phật từ bi nhận sự cúng dường nầy của chúng con, và phát nguyện đem công đức nầy, hồi hướng khắp tất cả pháp giới chúng sinh, nguyện chúng con và tất cả chúng sinh, đều cùng thành Phật đạo.
HT Tuyên Hóa