Mục Lục

I . THÂN THẾ

Ni trưởng pháp huý Lệ Cưng, đạo hiệu THÍCH NỮ HUỆ GIÁC, thế danh NGUYỄN THỊ CƯNG, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 42, là Trưởng tử của Đức Tôn Sư Hoà Thượng thượng Thiện hạ Phước hiệu Nhựt Ý thuộc dòng Lâm Tế thứ 41, với biệu hiệu là Đức Mẫu Trầu Bồng Lai, người khai sơn môn phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng.

Ni trưởng sinh năm Đinh Sửu, ngày mùng 2 tháng 6 tiết Tiểu thử, Lập thu, nhằm 3 tháng 7 năm 1937, tại Ấp Chợ, làng Tân Ba, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé (Biên Hoà cũ, nay là Thái Hòa, Tân Uyên, Bình Dương) . Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Ngưu một nhà Nho minh triết, Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Bồng, một Phật tử thuần thành tu cư gia và làm việc phước thiện cứu dân độ thế, chữa bệnh cho những người có gia đình gặp khó khăn khi lâm bệnh. Năm 1960 (Canh Tý) cụ bà cũng quy y với Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, tại tổ đình Linh sơn, núi Dinh (Bà Rịa). Vào ngày 4 tháng 5 năm Kỷ Mùi, 1979 cụ Bà quy tây tại Quan Âm Tu Viện, hưởng thọ 83 tuổi.

Ni trưởng Huệ Giác là con Út trong gia đình gồm 7 anh chị em, tất cả đều nên bề gia thất. Riêng Ni trưởng tự thân xuất gia hành đạo, từ lúc thiếu thời thường xuyên biểu hiện những linh tri trực giác sẳn có, một lòng tín ngưỡng chư Phật, chư Bồ Tát, nhất là Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Âm. Ngoài ra, Ni trưởng luôn để tâm tới việc hộ trì Tam Bảo trong quãng thời gian Phật pháp gần như chìm lắng trong thầm lặng.

II . XUẤT GIA

Vốn sanh trong một gia đình trung lưu gia giáo và phúc hậu, kính tin ngôi Tam Bảo, thường xuyên đi nghe thuyết pháp với Ngài Cao Minh Thiền Sư giảng về pháp môn niệm Phật, cũng như thường lui tới Tổ Đình Long Sơn Cổ Tự ở xã nhà (Tân Ba) để hộ trì và học đạo với Đại lão Hoà Thượng Bổn Sư thế độ thượng Trí hạ Châu, húy Hồng Ân.

Tuy thân còn ở nơi thế tục nhưng Ni trưởng rất tinh tấn ít khi vắng mặt tại Long Sơn.

Tuổi trẻ, Ni trưởng là một học sinh thông minh, mẫn tiệp nhạy cảm luôn thi đậu hạng cao, được cấp học bổng vào tòng học nội trú tại trường Nữ Trung Học Gia Long, Đường Bà Huyện Thanh Quan, Saigon (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai). Suốt 4 năm học tại bổn trường, Ni trưởng thường hay xuất kỳ bất ý giảng đạo khuyến thiện cho các bạn học sinh cùng lớp, thậm chí đến Hiệu trưởng và các Giáo sư cũng phải chú tâm để nghe lời sách tấn khuyến thiện, mỗi năm học, các vị giáo sư đều nhìn nhận Ni trưởng học rất ít, nhưng đến kỳ thi đệ nhứt và đệ nhị lục cá nguyệt đều đậu thứ hạng cao, vượt điểm trung bình, đây là đều làm cho các bạn học càng tín ngưỡng sâu sắc với Ni trưởng hơn bao giờ hết. Chính Thầy dạy học là cụ Hiệu Trưởng trường Tiểu Học Tân Ba Mã Sấm từng nhận định về người học trò của mình: “cháu Cưng (tức Ni trưởng) là người học trò phi thường, có cá tính, nhạy cảm, hay xuất kỳ bất ý thuyết giảng đạo lý”, sau này chính cụ Mã Sấm được Ni trưởng hướng dẫn tu tại Tổ Đình Linh Sơn (Núi Dinh) cầu học đạo với Đức Tôn Sư .

Năm 1955, nước Việt được tạm thời an cư lạc nghiệp, bản thân Ni trưởng được thọ giáo Quy y Tam bảo với Hoà ThượngThầy thượng Trí hạ Châu. Được đặt pháp danh Lệ Cưng nối tiếp dòng Thiền và Tịnh lưu thông rất hưng thạnh tại đất Trấn Biên và miền Nam và cũng nơi đây Ni Trưởng đã ý thức về Thiền Tịnh song tu của Tổ sư truyền đạt. Hạnh nguyện truyền đăng tục diệm, mà hoài bảo của Đức Tổ sư Nguyên Thiều có thể không còn mai một trong tương lai…Bời một bậc Ni lưu đạo hạnh có tư tưởng mới trong công cuộc truyền bá giáo lý Đức Phật.

Năm 1956, vẫn còn theo học tại bổn trường Gia Long, nhưng cơ duyên Phật pháp xứ Tân Ba đã đến, ánh sáng bi nguyện của Phật, chư vị Bồ Tát dấn thân vào đời, dùng “hạnh nguyện môn” hoằng hoá chúng sanh mang đến cho xứ Biên Hòa thủ phủ của miền đông một hiện tượng tươi mát thanh lương, như nước cam lộ Quán Thế Âm ban rãi khắp phàm trần, như mưa pháp sắp thấm nhuần nơi miền tịnh bang… Hiện tượng đó tức là Đức Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước, người đắc pháp với Đức Sư Ông Thượng Bửu Hạ Đức tại núi Đài, Châu Đốc, kinh qua Tịnh Độ môn thuần Tịnh, Đức Tôn Sư được Đức Sư Ông dạy về miền Đông hành đạo thì nên. Tại Long Sơn Cổ Tự giữa tông và giáo gặp nhau thật là nhiệm mầu. Đức Tôn Sư lại cầu pháp với Hoà Thượng thượng Trí hạ Châu và xin cầu pháp, với đạo hiệu Nhựt Y, thuộc dòng Lâm Tế gia phổ thứ 41.

Khi hành đạo tại Long Sơn này, hàng ngày có đến hàng trăm tín đồ Phật tử, Nhân sĩ, Trí thức, sinh viên học sinh cũng đến nghe thuyết pháp, trong số đó có pháp tử Lệ Cưng biệt hiệu Cao Diệu Huệ cũng đến học đạo với Đức Tôn Sư và đắc pháp với Ngài. Ni trưởng có pháp danh Thích Nữ Huệ Giác kể từ đây.

Qua chí nguyện của con người thầm lặng, hành đạo trên đất Trấn Biên, không làm hài lòng một số người bên nhà Thiền, nên Đức Tôn Sư bái lạy Thầy để thân hành về Núi Dinh (Bà Rịa) hành đạo tại Tổ Đình Linh Sơn . Bấy giờ Ni trưởng vừa là học sinh vừa hành đạo, có những ý thức mới trước vận mệnh đạo pháp và con người, nên Ni trưởng trốn gia đình theo Đức Tôn Sư về núi Dinh tu hành. Cùng đi với Ni trưởng còn có một số Nam Nữ Phật tử đã quy y với Đức Tôn Sư như Phật tử Mã Sâm, Mã Sấm, Hà Thị Cứng, Hứa Thị Hiếu, Hà Thị Lư, Hà Thị Huệ. Phật tử Thiện Lực, Phật tử Nguyễn Thị Mỹ và một số đông nam nữ Phật tử nhân sĩ, trí thức, Chủ bút nhà báo Chuông Mai, anh em phóng viên báo Chuông Mai, báo Thần Chung, sinh viên học sinh cùng về núi học đạo và hộ trì cho Đức Tôn sư khai sơn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng tức vào năm 1957 (Đinh Dậu niên)

Nơi chốn thâm sơn cùng cốc của Núi Dinh, một vùng thiêng liêng cổ kính, vóc lòng siêng tu tịnh niệm. Ni trưởng được Đức Tôn Sư ấn khả và là người đệ tử tâm đắc đối với Phật sự giảng kinh thuyết pháp về pháp môn Niệm Phật (Tịnh Độ Tông)

Ni trưởng chính thức xuất gia vào ngày mùng 9 tháng giêng năm Mậu Tuất 1958 dưới sự chứng minh của Đức Tôn Sư. Đức Bổn Sư thượng Trí hạ Châu, và Hội đồng Trưởng lão tại Tổ Đình Linh Sơn, cũng trong năm này Ni trưởng được Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông cấp giấy phép hành đạo giảng kinh khắp Trung Nam nước Việt. Tuy chưa thọ giới Sa Di Ni, chưa thật sự đứng vào hàng ngũ xuất gia chính thức, nhưng biệt tài thuyết pháp của Ni trưởng khó có ai có thể vượt qua người bởi nguồn huệ pháp vô biên bất tận, xuất khẩu thành thơ, âm thanh lưu loát, làm cho đại chúng đã mến mộ lại càng mến mộ hơn nữa, xin nương về cầu quy y tu học với Đức Tôn Sư, dù bất cứ nơi nào Ni trưởng cũng hoàn thành thiên năng của mình, làm chấn động chốn sơn môn, tòng lâm khắp nơi.

Năm 1965, Ni trưởng được giới thiệu về tại Tung ương Giáo Hội Tịnh Độ Tông thọ giới Sa Di Ni tại đại giới đàn Liên Tông Tự, Saigon, do Hòa Thượng Thích Hồng Anh đàn đầu Hòa Thượng chứng truyền với nhơn duyên lành thụ giới học đúng chánh pháp có đầy đủ Tam Sư thất chứng.

III . HÀNH ĐẠO

Rõ ràng là nguyên khí Phật Pháp Tịnh Độ Non Bồng, thực hiện hành lành Bồ Tát lợi tha, giáo pháp “phương tiện môn” xuất hiện tại vùng đất xưa Tân Ba, Tân Uyên, Biên Hòa. Ni trưởng Huệ Giác là người sớm giác ngộ, hành đạo trong thời kỳ son trẻ hiếm có trong đời. Mặc dù ở Việt Nam không phải không có những bậc cao minh đức độ nữ lưu hành đạo, nhưng thường là hành đạo không đúng với chánh pháp…Ơ đây Ni trưởng lại là người xuất gia hành đạo đi đúng phương hướng với chánh pháp tự gởi mình trong pháp phục Đạo luật Thiền gia, quy y thọ giới, thọ các giới, không bỏ thanh quy Thiền lâm, nên Đức Tôn Sư rất tin tưởng nơi người. Việc truyền đạo, qua công hạnh Quán Thế Âm Bồ Tát, không phân biệt Nam tử hay Nữ nhơn và với tấm lòng của Ni trưởng đã phát nguyện tu hành xây dựng thế giới Tịnh độ đúng theo bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, nguyện trang nghiêm thánh cảnh Tịnh Độ nhơn gian tại vùng núi Dinh. Từ đó đã giúp cho đại chúng Tăng Ni, Phật tử, cho đại chúng (sáu trăm người) an tâm tu hành :

                             “ Lập thân hành đạo vang danh ư hậu thế

                                Dĩ hiễn kỳ phụ mẫu hiếu chi trung giả”

          Ni trưởng sớm phát Bồ Đề tâm xả thân vào cuộc sống Đạo, giúp Tăng Ni tấn tu đạo nghiệp mà không phải gặp một trở ngại nào. Vẫn không xa rời giới luật Phật, nên đạo hạnh của Ni trưởng luôn là vị Ni tiêu biểu chốn thiền lâm, bảo trì giới luật nghiêm minh, thật đáng tôn đáng kính. Ni trưởng đã tạo nên một thời vàng son cho Phật Giáo miền Đông cũng như của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng từ những năm mới khai đạo cho đến hôm nay.

          Năm 1960 vâng lịnh Đức Tôn Sư, Ni trưởng thành lập Cô nhi Viện Phước Lộc Thọ để nuôi dưỡng bảo bọc các cô nhi, những người già yếu cô độc neo đơn, những kẻ cô bần đơn thân độc mã, có cả hàng trăm cháu được gởi vào đây để được nuôi dưỡng và giáo dục theo tinh thần từ bi của đạo Phật. Đồng thời cũng giúp cho Tăng Ni, Phật tử ý thức trách nhiệm về công tác Từ thiện. Từ thiện xã hội, là thực hiện giáo pháp : “Từ năng dữ thiết chúng sinh chi lạc, Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ” của Đức Phật, khẳng định những Phật sự này đã có từ hồi  Đức Thế Tôn còn sinh tiền.

          Mỗi ngày Ni trưởng còn tổ chức thuyết pháp tại giảng đường Tây Phương Bồng Đảo, mỗi thời thuyết pháp có 500 đến 600  Tăng Ni Phật tử thính pháp với một lòng thành khẩn thiết tha và thành kính hộ pháp, hộ tăng. Ngoài việc thuyết pháp Ni trưởng còn được Đức Tôn Sư giáo trách nhiệm truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới để làm phương tiện tu hành cho hàng Phật tử cư gia và chư tịnh nhơn tại Tổ Đình.

          Năm 1992, Ni trưởng vâng lệnh Đức Tôn Sư thành lập PHẬT HỌC ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG BỒNG ĐẢO để đào tạo Tăng Ni tài, có khoảng 250 Tăng Ni sinh có trình độ khả năng theo học. Số Tăng Ni sinh tốt nghiệp, ngày nay có vị vẫn còn ẩn dật chốn Sơn môn, núi non tu tịnh, còn một số đông trở thành những hàng Giáo phẩm lãnh đạo Giáo Hội, làm Trụ Trì, làm Giảng Sưm Giáo viên Phật Học…Nhưng Phật Học Đường TÂY PHƯƠNG BỒNG ĐẢO hoạt động được đến năm 1965 Ất Tỵ thì bị chiến tranh tàn phá cùng chung số phận với Tổ Đình Linh Sơn.

          Tuy vậy nhưng dư âm của Phật Học Đường vẫn còn được kế thừa tại Quan Âm Tu Viện. Tịnh xá Thắng Liên Hoa, Nhứt Nguyên Bửu Tự, Long Sơn Cổ Tự, Bửu Hoa Ni Viện.

          Năm 1966, Ni trưởng thọ giới Thức Xoa Ma Na Ni tại Tam Đàn Thánh Lễ, Giới Đàn Liên Tông Tự, đường Đề Thám – Sài Gòn do Hoà Thượng Giới Sư Thích Huệ Chiếu chứng truyền.

          Cũng trong năm đó, Đức Tôn Sư, Ni trưởng và toàn thể Tăng Ni Tổ Đình Linh Sơn thảy đều tản cư xuống núi vì bom đạn tàn phá Thánh địa Non Bồng, Tổ Đình Linh Sơn hư hoại 100%. Đại chúng khoảng 600 Tăng Ni phải tạm trú nhiều nơi như Phổ Hiền Phật Tự, Tịnh Xá Thắng Liên Hoa, Nhứt Nguyên Bửu Tự (Lái Thiêu).

           Tại trần thế, nơi trú xứ Nhứt Nguyên Bửu Tự, tên tuổi của bậc Cao Tăng, nương theo lời dạy của Phật trong Kinh Bát Chu Tam Muội và nối tiếp truyền thống của chư Tôn túc Phật Học Viện Lưỡng Xuyên,Trà Vinh - Ni trưởng xin phép Đức Tôn Sư khai khoá Niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh niệm Phật” theo đúng chủ trương của Phật giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam. Hằng năm khóa niệm Phật tinh chuyên trì niệm được khai mở từ ngày mùng 8 tháng 8 hằng năm đến ngày 17 tháng 11 lễ vía Đức PHẬT A DI ĐÀ thì mãn khoá. Khoá niệm Phật đầu tiên được tổ chức vào năm 1965 (At Tỵ) này có gần 20.000 lượt Tăng Ni Phật tử các nơi khắp Trung Nam câu hội tham dự niệm Phật tu học. Khoá niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh” trở thành khóa tu truyền thống cho đến ngày Đức Tôn Sư viên tịch và đến nay vẫn còn sinh hoạt Phật sự tu hành thật nghiêm túc, tính đến năm 1992 có được 27 khoá, mỗi khoá đều có được chư Tôn Giáo Phẩm Tăng Ni trong và ngoài Tông Môn đến chứng minh và hộ trì, đấy là một tổ chức tu học quy mô có một không hai tại miền Nam nước Việt mà Ni trưởng là người đứng ra tổ chức đúng theo quy cũ Thiền lâm quy chế của chư Tổ sư đã ban truyền, làm cho chư Tăng Ni các hệ phái bạn khi nghe cũng sanh lòng hoan hỷ và hết lòng ủng hộ truyền thống khóa tinh chuyên tu tập này. Bằng chứng cụ thể là Nhứt Nguyên Bửu Tự mỗi năm luôn được Chính Quyền và Giáo Hội Phật giáo VN các cấp cấp giấy phép và tạo điều kiện thuận lợi cho Ni trưởng tổ chức khai khoá tu. Mỗi khoá tu đều được sự nhiệt tâm hưởng ứng của chư Tăng Ni, Phật tử cả nước hướng về tham dự tu tập, niệm Phật. Khóa niệm Phật tại trú xứ Nhứt Nguyên là khóa niệm Phật xuyên suốt thời gian 3 tháng 10 ngày, tức là 100 ngày, mỗi ngày các liên hữu luân phiên niệm Phật ngày đêm ròng chuyên không nghỉ (24/24). Khóa niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh” mỗi năm đều được tổ chức thành công viên mãn có tính cách nhất định. Đồng thời ngày lễ mãn khoá là một ngày chẩn tế gạo cho những gia đình nghèo trong vùng sở tại và Sài Gòn.

Năm 1966, Ni trưởng về tại Tịnh Xá Thắng Liên Hoa phụ trách hướng dẫn cho Ni chúng mở lớp học Giáo lý căn bản, sinh ngữ Pháp văn, cổ ngữ Hán văn, Ni chúng ở các nơi  vân tập dự học đông đủ.

Cũng trong năm này Ni trưởng chịu trách nhiệm phát hoạ sơ đồ xây dựng Quan Âm Tu Viện (Bửu Hoà Biên Hoà) đồng thời ủy nhiệm lại cho hai Đại Đức Thiện Chơn và Giác Châu chịu trách nhiệm trang nghiêm xây dựng cùng với chư Tăng của Tịnh Xá Thiện Chơn (Bà Điểm) đứng ra gánh vác việc trang nghiêm Tu Viện này. Những người đi xây dựng cho công trình tu tạo Quan Âm Tu Viện thật sự đạt được thành công lớn lao thật vĩ đại cho Tông môn. Vì chính nơi đây Đức Tôn Sư và Ni trưởng cùng hàng giáo phẩm chư tăng trong Tông môn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng đã từng vũ hành mọi phương tiện hành đạo. Tổ chức quản lý hành chánh Giáo hội, thuyết pháp giảng kinh, phục vụ từ thiện xã hội cô nhi viện Phước Lộc Thọ, mở trường Trung Tiểu Học Lâm Tỳ Ni, mở Trường giáo lý căn bản Tịnh Độ Tông, Thư viện và mọi cơ cấu đối ngoại cũng đều được đặt tại Quan Âm Tu Viện.

Quan Âm Tu Viện được thành lập ngày mùng 8 tháng 4 năm Bính Ngọ (27.05.1966).

Năm 1967 (Đinh Mùi), Ni trưởng phát tâm thọ Tỳ Kheo Ni Bồ Tát giới tại Tổ Đình Chùa Long Thiền (Bửu Hoà – Biên Hoà) do Hoà Thượng giới sư Thích Huệ Thành (Tăng Thống Phật Giáo Cổ truyền) chứng truyền.

Năm 1968, Ni trưởng quyết định dời cô nhi viện Phước Lộc Thọ từ Chùa Phước Thiện An về tại Quan Âm Tu Viện, cử Đại Đức Giác Châu làm Giám Đốc điều hành và đối ngoại, Đại Đức Thiện Tâm chăm sóc bảo dưỡng các cháu cô nhi. Riêng Đại Đức Thiện Chơn được cử làm Trụ trì Quan Âm Tu Viện, nơi đây Ni trưởng còn gợi ý cho Hội Đồng Chư Tăng triệu tập Đại Hội lần thứ nhất thành lập Giáo Đoàn Du tăng Khất Sĩ Non Bồng (Giáo Đoàn II) kỷ niệm 10 năm thành lập Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng (1957-1967), bốn năm thành lập các Giáo Đoàn Khất Sĩ Non Bồng.

Năm 1969, để cho việc xây dựng Quan Âm Tu Viện được chu đáo và hoàn chỉnh hơn, Ni trưởng tự thân xuất dương nghiên cứu về học thuật, xây dựng Thiền môn Tự Viện các nước Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông… chính cấu trúc quần thể ngôi Quan Âm Tu Viện hiện nay là do Ni trưởng nghiên cứu và mang từ Nhật Bản về để phát hoạ lại và bổ sung theo cấu trúc Việt Nam. Cho đến ngày nay Tăng Ni Phật Tử có nơi tu học, hành đạo thật an lạc trang nghiêm. Quan Âm Tu Viện là một Đại Già lam, danh lam thắng cảnh có tầm vóc của cả nước, là bản tự trung tâm của Tông môn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, toạ lạc trên đất Phật, vùng Trấn Biên Biên Hoà có đầy đủ giang sơn cẩm tú : - một bên  là Châu Thới Sơn uy nghiêm từ tốn - một bên là dòng Đại giang (sông Đồng Nai)  luôn cuộn tràn xuôi chảy đôi dòng hướng về Thái Bình Dương mênh mông bao la xanh thẳm.

Với những công đức Phật sự lớn lao do chính Ni Trưởng chịu trách nhiệm về vật chất lẫn tinh thần, hàng lớp nam nữ vì Ni trưởng mà phát tâm hỷ cúng, hiến tặng tài sản để cung cấp cho công cuộc xây dựng những công trình lớn tại các Tự Viện của Tông môn. Từ đó Ni trưởng được Hội Đồng Trưởng Lão, Hội Đồng Chư Tăng, Ni suy tôn Giáo phẩm Ni Trưởng trong Tông Môn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng vào năm 1974.

Năm 1975, Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác được cử làm Giám Đốc Quan Âm Tu Viện - Cô Nhi Viện Phước Lộc Thọ điều hành cho đến ngày 25 tháng 10 năm 1977 thì Nhà nước Đồng Nai giải tán Cô nhi viện theo chính sách chung.

Ngoài việc giảng dạy thuyết pháp cho Tăng Ni Long Sơn Cổ Tự, Quan Âm Tu Viện, Nhứt Nguyên Bửu Tự, Tịnh Xá Thắng Liên Hoa…Ni trưởng còn chuyên cần giảng kinh thuyết pháp cho hàng chục vạn nam nữ Phật Tử đến lễ bái quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm, thọ Bát Quan Trai giới tại Quan Âm Tu Viện. Hiện nay tại trú xứ này cứ mỗi nữa tháng thì có lễ truyền trao giới Bát Quan Trai cho quý vị Ưu bà tắc, Ưu bà di lãnh thọ tu học. Mỗi đàn lễ có khoảng từ 100 đến 150 vị tham dự tu học một ngày một đêm, từ sáng ngày Chủ nhật đến sáng Thứ hai thì xả giới.

Ni trưởng từng được tấn phong lên hàng giáo phẩm tại giới đàn Bửu Phong Cổ Tự vào năm 1980, do Đại Lão Hoà Thượng Thích Huệ Thành chuẩn cấp. Ni trưởng cũng đã từng được tuyển trạch Hộ Đàn, Phó Đàn chủ, Giáo Thọ A Xà Lê Sư, Giám khảo tại các Giới Đàn do Tỉnh Hội Phật giáo Đồng Nai tổ chức  tại Tổ Đình Long Thiền (Bửu Hoà, Biên Hoà) trong những năm 1981 - 1982 -1983 -1984 -1990 -1991.

Kể từ năm 1981 sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai được thành lập dưới sự chứng minh tối cao của Hoà Thượng Phó Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ni trưởng còn được Giáo hội tuyển trạch mời tham gia chức sự quan trọng trong các trường Hạ do Giáo Hội tổ chức hàng năm tại Tổ Đình Long Thiền, Bửu Phong Cổ Tự, Thanh Long Cổ Tự.

Ni trưởng hiện nay là Uy viên Ban Từ Thiện Xã hội Trung ương GHPGVN - Uỷ viên Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo tỉnh Đồng Nai, Viện chủ kiêm trụ trì Quan Âm Tu Viện.

 HT Thích Giác Quang



Có 2 phản hồi đến “Sơ Lược Tiểu Sử Ni Trưởng Thích Nữ Huệ Giác - Viện Chủ Quan Âm Tu Viện Đồng Nai”

  1. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ,CON XIN THINH AN THẦY. CÁCH ĐÂY 9 NĂM CON MAY MẮN ĐƯỢC DUYÊN LÀNH ĐƯỢC THẦY QUY Y CHO CON. LÂU RỒI CON KHÔNG ĐƯỢC DIỆN KIẾN THẦY. CON RẤT MONG CÓ ĐƯỢC DUYÊN ĐỂ BÁI THẦY . CON, DIỆU HƯƠNG.

  2. LA THÚY ĐIỆP đã nói

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. CON XIN THỈNH AN CON CUNG KÍNH CHÚC THẦY PHÚC NHƯ ĐÔNG HẢI THỌ TỈ NAM SƠN. CON NGỌC TƯƠI HÀ NỘI.

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com