Mục Lục
BÀI AI ĐIẾU THẦY MẸ NON BỒNG
Đức Tôn Sư Hoà Thượng THƯỢNG THIỆN HẠ PHƯỚC
Chúng con tất cả môn đệ tử tôn, Phật tử hiếu đồ trong tông môn LIÊN TÔNG TỊNH ĐỘ NON BỒNG giời đây vân tập đến trước kim quan để dâng lên lời tâm sự sau cùng, bái thỉnh Thầy Mẹ chứng minh:
Nam Mô A Di Đà Phật
Khói lam nghi ngút
Hương trầm toả quyện
Khung cảnh trang nghiêm
Con con, cháu cháu
Đồng quỳ kính bái….
Bầu trời ảm đạm
Khí lặng mây ngừng
Niềm đau thương tiếc
Đấng chơn sư phụ
Phi sắc, phi không
Hy hữu trần gian
Mê tình khó biết
Liễu đạt trí tiền
Ôi niềm đau thương tiếc!
Thầy mẹ ơi!
Đâu non Nam?
Đâu động Phổ Đà?
Ngài đã tách dặm băng ngàn
Con cúi đầu đảnh lễ
Thầy mẹ ơi!
Ơn thâm sâu con dốc trả
Ơn nghĩa cả con quyết đền
Một lòng son sắt
Kết chặt tấm lòng
Làm con hiếu đạo
Thầy mẹ ơi,
Minh Linh dưỡng tử
Ta là Nguyên Độ
Giác Lộ mẹ hiền
Trí dũng trung kiên
Dẹp phiền bỏ não
Mẹ về thanh tịnh
Hội nhập ta bà
Hào quang phổ chiếu
Phổ độ chúng con
Làm tròn đạo pháp
Oai linh huyền diệu
Linh cảm ứng hiện…
Thầy mẹ ơi…!
Đâu thân lực bất tư nghi
Đâu lực, vô uý, vô biên?
Chúng con tu niệm
Dứt hẳn mê tình
Tấn đạo nghiêm thân
Tỏ sáng tinh thần
Trường kỳ hộ thế…
Thầy mẹ ơi!
Chúng tử còn khờ dại
Tội nhiều phước ít
Hệ luỵ biết bao
Mẹ hiền thương xót…
Thầy Mẹ ơi!
Đâu đành non lô cao ngất
Đâu suối ngọc tuyền trong mát?
Đâu pháp nhủ nhuận tràn?
Đâu để hồ nhỏ mát?
Đâu cam lộ rịn nhuần
Ôi! Trái tim Bồ Tát
Mẹ hiền đáng kính yêu….!
Thầy mẹ ơi!
Chúng con đồng kính bái
Ai tường trong đục?
Ai rõ nhục vinh?
Ôi! Dòng sanh tử trần gian
Chúng con quỳ trước kim quan
Xin sám hối…
Thầy mẹ ơi!
Núi “Bồng Lai” mẹ ở
“Long Phước Thọ” mẹ trụ
“Quan ÂmTu Viện” tổng trì của Mẹ
“Thắng Liên Hoa” mẹ tội, mẹ ngồi
“Long Sơn Cổ Tự”
Cội lành mẹ dựa đỡ mõi lưng
“Nhứt Nguyên Bửu Tự” ao Liên Trì
Mẹ tắm mát chơn thân
Phủ phục, phủ phục
Chúng con đồng kính bái
Thầy mẹ ơi!
Tự tự gia gia
Mẹ đồng lai giáng hộ
Con con cháu cháu
Tinh tấn tu hành
Tại gia hiếu đạo, từ mẫu hiền hoà
Lục hoà thiền na
Đại thừa chánh giáo
“Thiền Tông Tịnh Độ”
Luật ghi tâm phát
Kính nghĩa viễn thông
Định huệ khai minh
Thiền tôn hưng thịnh
Phật pháp trường thăng
Pháp luân thường chuyển
Thầy mẹ ơi!
Cây xanh màu đạo tươi thắm
Nhà nhà no ấm
Chỗ chỗ yên vui
Tình thương của mẹ
Đượm nhuần đâu nguôi
Thầy mẹ ơi!
Thương xót ta bà
Hằng sa vô lượng
Chúng con đồng kính bái
Tam giới vãng lai
Cứu độ mê tình
Thầy mẹ ơi!
Thế tục vô minh
Xin mẹ niệm tình tha thứ
Chúng con đồng kính bái
Thầy mẹ ơi!
Buổi mai ai thăm mẹ?
Buổi chiều ai kính viếng?
Thăm thẳm xa vời
Tình mẹ bao la
Lai láng trăm ngàn sữa ngọt
Dáng mẹ hiền muôn thuở đâu nguôi
Mẹ hiền ơi thương xót
Làm sao đo lường lòng biển được
Làm sao đo núi cao cao?
Núi tuyết khói lam mờ
Tiếng ca lặng im bặt
Buồn thảm chúng con biết bao
Thầy mẹ ơi!
Đoái hoài tình thiên sơn, nghĩa hiếu tử
Quang minh nhựt nguyệt
Mẹ tươi vui
Cho chúng con phước thọ trường lưu
Cho chúng con tu hành đắc quả
Đặng viên thành
Làm vui Mẹ, chúng con tròn hiếu tử
Thầy mẹ ơi!
Chúng con đồng quỳ kính bái
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Quan Âm Tu Viện ngày 5/8 Năm Bính Dần (8.9.1986)
Điếu văn của Ni Sư Huệ Giác kính dâng Thầy Mẹ bá bái
BÀI ĐIẾU CỦA PHẬT TỬ ĐOÀN
Tịnh Xá PHƯỚC HUỆ xã PHÚ TÚC huyện ĐỊNH QUÁN
THÀNH KÍNH DÂNG LÊN
Diêu đàn nhớ trẻ dạo huê viên
Trì thấy các con lai tựu về
Kim cúc trổ màu lan huệ nở
Mẫu đơn liễu yếu vẹn câu thề
Vô vi trưởng dựng cơ đồ lập
Cực trí nhắc con Mẹ đến kể
Từ bấy lâu rồi thương nhắc trẻ
Tôn ti Tăng sĩ phản hồi quê
Ngày mùng 2.8 năm Bính Dần
Tỳ Kheo Pháp Huyền
VĂN TẾ
Sư huynh THIỆN PHƯỚC Hiệu NHỰT Ý
(Viên tịch ngày 1 - 8 năm Bính Dần)
Than ôi!
Ngọn đuốc từ bi xao gió
Vầng trăng hỷ xả lờ mây
Sau trước đó đây ngợi khen toàn quốc
Đông Tây Nam Bắc – Đạo, Đời rộng bước đa tài
Buồm xuối thuận gió, anh hùng hào kiệt xứ này
Thời thế khó bàn, ai biết ta là bỏ xó
Vả chăng tài cũng tuỳ người, chẳng đợi nho thâm học bác
Nên hễ người đã đúng mực, thì là chí lớn rộng dài
Thuở bé, lúc hàn vi – với song thân khó bì hiếu thuận
Lớn lên gặp quốc vận, đã từng tham gia chống tà tây
Cùng xã hội có công dày, hòn đá nhỏ đã góp tài ba nghĩa vụ
Với gia đình còn nhiều nghĩa vụ
Đám con nuôi còn cần hướng dẫn nên tài
Nhớ linh xưa
Nợ nước chưa tròn, ơn nhà vốn trả
Thân tâm chưa thoả, giải thoát tu hành
Sớm tuổi xuân xanh tròn nghĩa vụ công dân
Muộn đầu bạc tu hành nhờ giải thoát
Dáng oai nghiêm ngày nào nơi cửa pháp
Giọng từ bi thuở nọ chốn thiền môn
Sợ tử sinh giả họp vô thường
Một lời nguyện “Cứu Nhân Độ Thế”
Lo lên xuống luân hồi rất khổ
Mấy phen chướng nạn với trần lao
Bước chơn mây gió Am vân, ngày tu viện đêm về Bồng Đảo
Chí Thầy quyết vươn cao đạo pháp để môn sinh kế nghiệp lâu dài
Nguyện Thầy mong khổ ải thân ta
Muốn xã hội người đều no ấm
Chí là thế, nguyện là thế, nhưng thân ta sao khỏi chông gai?
Đời phiền não, đạo bồ đề, chúng thêm hoan hỷ
Ôi vẫn biết: Dòng đời giả dối
Kiếp phù sinh mây nổi phù vân
Nhưng tình huynh đệ, nghĩa tông môn
Trước cảnh vô thường làm sao không chạnh lòng chua xót
Nay thì:
Trước giác linh có Hồng Đức – Huệ Bình
Xin huynh trưởng nhận tình chứng giám
Và tất cả môn sinh hiện diện
Có lòng thành chứng kiến nơi đây
Xin huynh trưởng nhận tình chứng giám
Nước bát công này một chén
Hương ngũ phần nọ ba cây
Ngưỡng mong giác lành của Thầy
Xin thượng hưởng lòng đây chúng đệ
Hoà Nam bái bạch
Hồng Đức – Huệ Bình
(Hoà thượng Hồng Đức viện chủ Y Lâm Tịnh Xá đến phúng điếu, đảnh lễ giác linh Hoà Thượng Sư Huynh và đọc điếu văn vào ngày mùng 3- 8 năm Bính Dần 1986)
ĐIẾU VĂN CỦA THƯỢNG TOẠ SIÊU NHỰT QUANG
Trước giác linh của ĐỨC TÔN SƯ ngày 04-8 năm Bính Dần. 1986
DI ĐIẾU
Ô hô! Đường trần đã dừng bước
Cõi tục hết dọc ngang
Mấy mươi năm tu niệm
Thử thách khó khăn, trải biết muôn ngàn
Ôi! Kính thay! Quý thay! Phục thay!
Vẫn bình tỉnh, vẫn vượt qua, vẫn kết quả, hi hữu thay!
Cứu lắm người thoát khổ
Độ nhiều kẽ trường chay…
Khen chê lòng chẳng bận
Vinh nhục dạ không nài…
Rồi hôm nay Ngài lại ra đi
Để ngàn sầu buồn thảm… cảnh tử biệt sanh ly…
Than ôi! Mặc dù đời là thế
Có hợp phải có tan
Có sanh ắt có diệt
Nhưng sao khỏi tiếc than?
Cõi tạm Ngài tạm đến
Duyên hoá độ tạm xong
Ngài ra đi theo định số
Ôi môn nhơn đệ tử sao khỏi đau lòng. Nhớ lúc sanh tiền lòng từ bi rộng lớn. Thường người mến vật… Đầy đủ đức bao dung. Nhớ khi hành đạo. Khéo điều phương tiện. Dìu dắt hàn linh, không phân biệt trí ngu, sanh hèn thiện ác.
Để kiến vượt qua khổ ải
Thoát khỏi mê tình
Nhớ khi gần đất xa trời
Tâm vẫn chứa chan tình thương lo cho con cháu
Căn dặn đủ điều nào lo tu hành
Nào giữ giới hạnh – nào tròn giới hạnh
Nào tròn hiếu đạo
Than ôi! Từ xa nghe tin Ngài viên tịch
Tiếc thay! Mất rồi bậc siêu nhân
Biết bao giờ gặp lại để học hỏi lý chơn…
Giờ đây trước linh thể – xin đốt nén tâm hương
Và có đôi lời ai điếu…
Để tiễn đưa bậc siêu nhân về miền Lạc Quốc
Và mong có ngày bậc siêu nhân trở lại
Đem ánh sánh đạo mầu
Rọi khắp cả Năm Châu
Cho trần thế hồi đầu
Cho Cụ Bồ Tát đạo
Cho quãng độ nhơn thiên
Cho sớm viên thành đạo quả
THIỆN THỆ TỬ
SIÊU NHẬT QUANG
AI KÍNH ĐIẾU
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Điếu văn của Hoà Thượng Thích Thiện Nguyệt, viện chủ Bồ Đề Tràng đọc trước giác linh Đức Tôn Sư ngày mùng 3 8 năm Bính Dần
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính bạch Chư Tôn Hoà Thượng, cùng môn đồ tứ chúng, bổn đạo thiện tín Phật tử mười phương. Xin từ tâm hoan hỷ cho phép chúng tôi có đôi lời tỏ lòng cảm tưởng giác linh của người khuất bóng.
Hởi giác linh!
Cố Hoà Thượng đạo trưởng có linh thiêng xin chứng giám
Đây hương trầm, hoa quả đầy lễ vật thành tâm
Niềm huynh đệ đau lòng biết mấy!
Các môn đồ tứ chúng
Kính cẩn quỳ trước kim quan uy nghi chói lọi
Hương trầm ngào ngàt toả ngát linh đài
Điện từ quang xán lạn chói chan linh cữu
Với khung cảnh trang nghiêm thêm mầu nhiệm
Chúng tôi cảm thấy bồi hồi trong dạ, thổn thức nhớ thương
Nghĩ đến Đạo Huynh lúc sinh tiền một đời đạo hạnh
Gương chói loà lồng lộng bao la
Độ sanh vô kể, thân tướng vòi vọi trang nghiêm
Hình dung đỉnh đạt ý chí cao siêu
Cũng là một sứ giã Như Lai giao phó
Hiện thân cõi ta bà giáo hoá, phổ độ quần mê
Công dầy, quả mãn, trực vãng Tây Phương
Nương về Tịnh độ….
Hiền huynh ơi!
Khi sanh tiền đã mượn chiếc thân tứ đại giảhọp
Để làm thuyền chở người qua bến giác
Lấy những đức tánh siêng năng cần mẫn
Từ hoà – khiêm tốn – nhẫn nại
Lợi tha – để độ môn đồ đạo chúng
Thật lòng từ rộng rãi bao la
Dạ từ bi không tìm ra được bến
Nay thân tứ đại đã hoàn về cố thổ
Cõi hương đài khó thấy được nhục thân
Nhớ khi xưa đôi ta còn ở non cao đảnh thượng
Hằng nhắc nhở lẫn nhau – thường nói rằng:
“ Người đệ tử Phật nếu không coi sanh tử là việc lớn vô thường là mau chóng cần tu như lửa cháy nóng trên đầu – đừng cho chậm trể nó hầu thiêu thân…”
Nên biết rằng mạng sống ta đây chắc chết lúc nào không hay mà hẹn trước được, phải mau mau niệm Phật tu hành hồi hướng cầu sanh tịnh độ gấp gấp còn e chưa kịp chớ có chần chờ.
Nhớ mến thương nhau vô lượng vô biên
Vì sứ mạng hai ta đồng tu hai nẻo
Cách bóng xa nhau nhưng tâm hồn chẳng cách
Khi hiền huynh đã biết trước một Giáp có dư
Sắp có ngày viên tịch
Hiền huynh đã dặn dò cặn kẻ
Có bút ký di ngôn cho môn đồ y lời di chúc
Những lời dạy sau đây mà làm, không được trái lời nghịch ý ngoài những lời di chúc, sau khi hiền huynh viên tịch
Nay hiền đạo này hiệp cùng đệ tử Tăng Ni môn đồ bồ đạo phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trên con đường tu hành giải thoát
Để hiền huynh đạo trưởng được an tâm nhẹ nhàng nơi Phật Quốc
Ôi! Lời huynh răn nhắc nhở khích lệ cùng nhau còn văng vẵng bên tai mà nhục thể hiền huynh từ đây không còn được thấy nữa.
Nay cội từ bi đã đổ, đèn trí huệ đã lu mờ, còn đâu để tựa để nương
Than ôi!
Chiếc dép hữu tình rơi tại đó
Còn thuyền vô đế ngự vào đâu ?
Chắc cũng có nhạc trời hầu hạ
Chư thiên rước đưa chắc cũng có
Bảo Cái Tràng Phan Kim Lâu Ngọc Các
Bởi vì xác phàm tục chẳng nghe chẳng thấy
Lẽ đâu đuốc quang minh còn lạc còn lầm
Chín phẩm sen vàng giác linh khoái lạc triền miên Phật bảo
Cảnh ấy tình này sâu dày, tưởng vắn ôi thôi
Tâm áo cà sa sương lạnh ngắt
Cành hoa bát nhã giờ buồn thiu
Nghĩ lại đôi ta cùng hội họp
Cách đã bao năm nay người về Cực Lạc
Còn kẻ ở trần gian đôi ngã cách phân, biết bao sụt sùi ly biệt
Ôi thôi! Sữa pháp mất rồi từ khi mẫu từ vắng bóng
Lòng khát Phật, Phật tử môn đồ khi cơn đói khát mãi biết cậy nơi ai
Ngày la đêm nhắc
Biết nương ai sớm dắt, tối dìu
Biết hỏi ai mở trí thâu thân, biết nhờ ai nương thân huệ mạng
Lơ láo một mình nơi cố thổ, đau đớn buồn thay, hởi ai có biết
Vì sự mất mẫu nghi, đi về ngàn dặm, lối tha hương ngẩn ngơ,
Nghĩ mong biết chừng nào gặp lại
Than ôi! Ân trợ đạo làm sao trả đặng?
Nghĩa đệ huynh biết tính sau đây?
Trong giờ phút này đứng trước linh đài
Hương trầm quyện toả một lòng tưởng niệm, nghĩ đến hiền huynh mà lòng luống bùi ngùi, dạ không nguôi nhớ trộm
Nghĩ chăng? Những lúc sanh tiền cùng nhau tu tập ở hang mai kẹt đá.
Dốc lòng thành cầu nguyện cùng nhau đắc thành huệ mạng khai hoá chúng sanh, tiếp tăng độ chúng
Nung đúc cho mỗi người thanh Phật Tử xứng đáng mới ưng
Hiện giờ trong lúc này, sắp sửa về phương Tây, mà vẫn còn lo lắng thiết tha cho lẻ đàn gà con chiu chít bơ vơ sau đây nơi uế độ.
Mà hiền huynh đã đem hết lòng ưu tư lo lắng
Sau khi đã thân thần về nơi Phật cảnh không rồi đây đàn gà con có biết lá lành đùm lá rách hay không?
Đoàn kết theo chí hướng, đạo hạnh cao quý của các vị chơn sư.
Hay là rời rạc gãy đi từng chiếc – rất tiếc thay
Hỡi ơi…!
Thật là muôn ngàn sụt sùi bi thiết thảm thê thay
Cho lũ con khờ bầy trẻ dại, đang thẩn thơ lạc lõng bơ vơ,
vừa mất đi một người hiền mẫu.
Đã từng đem hết cuộc đời, đề ban cho bầy con trẻ
Tất cả tình thương yêu, đùm bọc tất thành, không hề giới hạn
Mà các môn đồ Phật tử chẳng biết thọ hưởng mà trái lòng nghịch ý, làm buồn lòng thêm nhiều nỗi đau thương phiền phức
Làm cho lòng mẹ hiền thêm nỗi lắng lo, cho lũ con khờ dại
Chẳng khác nào như kẻ ngủ mê đêm dài
Vừa tỉnh giấc ra thì hỡi ơi! Hình bóng đấng mẹ hiền không còn nữa!
Giật mình kêu khóc, nỗi dại khờ ai lấy lại được đâu…
Giờ đây mới biết đàn con dại ngẩn ngơ, thơ thẩn, buồn thầm nơi dạ.
Chỉ còn biết ăn năn, hối hận, sám hối, nguyện cầu:
Giác kinh của hiền mẫu đặng thảnh thơi miên tịnh quang thắng cảnh.
Biết thương, biết thương xót lũ con khờ mà phưởng phất hồn linh.
Về đây gia hộ chứng chiếu cho lũ môn đồ Phật tử thơ ngây.
Tu mau thoát kiếp luân hồi vãng sanh về Tịnh Độ, đắc nhập Long Hoá, Long Hoa đại hội…
Nay bần đạo này đại diện cho tất cả môn đồ bổn đạo, tín thí đàn na, chư gia Phật tử, nam nữ đạo tâm: Nguyện đem hết nỗi niềm suy tư nuối tiếc dâng lên đôi lời mộc mạc, và trong giờ phút muôn ngàn xúc động, thắm thiết nơi cảnh biệt ly này, chúng đệ tử môn đồ đối trước linh tiền, chỉ còn biết một nén tâm hương, tấc dạ chí thành, y chỉ những lời di ngôn bút ký y giáo phụng hành, cúi đầu đảnh lễ nguyện dâng theo lời dạy trong di chúc và những lời dạy cuối cùng khi viên tịch, để tỏ chút lòng gọi là báo ân, báo đức của đấng Tôn Sư Đạo Trưởng trong muôn một… Vài lời cảm niệm, nguyện giác linh thuỳ từ chứng giám
Nam Mô siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát
Kính viếng hiền huynh Hoà Thượng
Thượng THIỆN Hạ PHƯỚC, hiệu NHỰT Ý
giác linh chứng minh…
Ngày mùng 3 tháng 8 năm Bính Dần
Hoà thượng Viện chủ Bồ đề Đạo Tràng,
Tân Uyên, Sông Bé.
LỜI TỰ BẠCH
(Của GIÁC QUANG, một trong những hàng giáo phẩm, đệ tử lớn của ĐỨC TÔN SƯ HOÀ THƯỢNG Thượng THIỆN Hạ PHƯỚC, hiệu NHỰT Ý, biệt hiệu ĐỨC MẪU TRẦU BỒNG LAI)
Tại giảng đường QUAN ÂM TU VIỆN, nơi đang quàng Kim quan của Đức Tôn Sư vào đêm mùng 4 tháng 8 năm Bính Dần 1986.
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ:
NAM MÔ LIÊN TÔNG SƠ TỔ TÂY PHƯƠNG BỒNG ĐẢO, KHAI SƠN TRÙNG HƯNG, XIỂN DƯƠNG CHÁNH PHÁP, XƯƠNG MINH TỊNH ĐỘ THƯỢNG THIỆN HẠ PHƯỚC VIỆT NAM TỔ SƯ BỒ TÁT.
Ngưỡng bạch giác linh Đức Tôn Sư.
…………………………
Con đã đến với thầy năm 14 tuổi, một tuổi đời mà sức sống học trò đang lên cao ở năm thứ tư Ban Trung Học, với tâm hồn vô tư, thuần khiết trong xã hội chưa văn minh, nhưng lễ giáo Thuần Phong Mỹ Tục còn ngự trị ở đỉnh cao nơi con người Việt Nam.
Ngày 30 tháng 5 năm 1960, nhằm Tiết Mãn, Lập Hạ, ngày mùng 6 tháng 5 năm Canh Tý ấy, tại phòng chư Tăng Tổ Đình Linh Sơn, Đạo Tràng Tây Phương Bồng Đảo, Thầy đã thân hành đến xoa đầu con, thầy nắm tay con và hướng dẫn đến Đại Hùng Bửu Điện, Thầy cất tiếng cao trong trẻo hỏi:
- Chú muốn tu không?
- Mô Phật, bạch Thầy con muốn theo Thầy tu học.
- Cha mẹ chú có đồng ý không?
- Bạch Thầy cha mẹ con đã từ trần lâu rồi. Nay con xin Thầy cho con ở lại tu hành để sau này cứu Cửu Huyền Thất Tổ của con…
- Chú còn nhỏ quá, nhận chú theo tôi tu hành, gia quyến bảo tôi dụ dỗ trẻ nít thì sao?
- Bạch Thầy, con xin quyết chí xuất gia và con đã trốn gia đình đi về núi vào lúc 03 giờ khuya, ngày hôm nay đó Thầy
- Tôi chấp nhận cho chú tu, nhưng phải có người thân gửi gấm..
Con đáp lại lời phán của Thầy bằng đảnh lễ ba lạy và lui ra.
Thế là con trở thành một tiểu Tăng không chính thức chốn sơn môn Tổ Đình Linh Sơn Tự, giữa hàng đại chúng Tăng Ni đến 500 vị.
Vào ngày 15 tháng 6 năm đó (1960) Bà Kế Mẫu của con vâng lời Nội Tổ xin viếng núi rước con về, không cho con theo thầy, cũng như không cho tu núi. Nội Tổ sợ con đi lạc đường Đạo, theo ý của Nội Tổ thì con phải vào tu học ở Phật Học Viện HUỆ NGHIÊM để sau này tiến thân phụng sự đạo pháp. Vậy là Nội Tổ con nghi ngờ con theo thầy tu học là đi lạc đường hướng với chánh pháp. điều này khi con trưởng thành và nên đạo, con buồn lắm nhưng chính con là nhân chứng của hai giáo điều: Lúc con mới theo Thầy “Thiên hạ khinh chê Thầy” và sau khi con trưởng thành “Thiên hạ tôn kính và tín ngưỡng Thầy”, ngưỡng bạch Thầy chắc có lẽ điều này là lẽ thường tình đối với các bậc đạo sư hoằng pháp phải không Thầy?
Rồi con đã phải bị dẫn về cư gia tu hành, cũng chẳng có ai đưa con vào Phật Học Viện Huệ Nghiêm, vì lúc bấy giờ con đã được thế phát. Con có hơi bất đồng với thầy Giảng Sư Nhựt Long (bác của con) thầy lại làm thinh trong việc này nhưng chính thầy Nhựt Long là đạo diễn đưa con vào Phật Học Viện Huệ Nghiêm, không cho tu núi. Nhưng cũng chính Thầy Nhựt Long là người thương yêu con nhiều nhất, và con cũng tín ngưỡng Thầy. Thầy Nhựt Long là biểu tượng trước khi con đi tu xuất gia phát nguyện “Nguyện đi tu học sau này trở thành giảng sư như Thầy…” Cái bất đồng thứ hai đối với thầy Nhựt Long là Thầy hay chê Môn phái con đang tu học. Thầy bảo là con đi theo Mẫu Trầu là đi lạc đường theo tà kiến…Thân quyến cũng vận động anh của con Lê Hữu Hảo làm đơn thưa thầy với chính quyền tại nguyên quán, bảo là Hoà Thượng chùa Linh Sơn, Bà Rịa dụ dỗ thanh thiếu niên vào Chùa. Nhưng vào chùa tu học đâu có tội gì với xã hội cũng như với Cữu Huyền, chẳng qua là gia đình anh chị của con không xuyên suốt đạo pháp đó thôi. Nhưng cũng chính những người đó ngày nay đều hướng về quy y với thầy…
Bởi thầy là nguồn suối mát thanh lương, luôn luôn xoa dịu mọi tâm hồn đơn lạnh giữa chốn phù hoa, khai sáng nguồn trí tuệ chính chắn trong khi thế nhân không tỏ rạng đạo hạnh của Thầy bởi vì đạo hạnh không bắt buộc phải kinh qua tên, tuổi, danh, sắc, hình tướng, cũng như danh hiệu Mẫu Trầu phải không Thầy? Họ không sống chung với Thầy một ngày nào cả, mà phóng đại đánh giá, thật là phiền trược, ô nhiễm, tham sân si…?
Ngưỡng bạch giác linh Thầy
Con luôn luôn tự nghĩ và hỏi: “ Thế nào là chánh kiến ? Khó mà giải đáp trong một sớm một chiều, vì trong chánh kiến còn phải chờ đợi sự giải đáp bằng hành động , bằng đạo hạnh, tác phong của người hành đạo nữa phải không Thầy? Người mở đạo là để khai thị cho chúng sanh kế thừa một pháp môn của Phật như Thầy, không lẽ không đủ năng lực để giáo huấn người tu hay sao mà nhận định đánh giá là Chánh với Tà…?
Và sự kiềm hãm trong vòng thúc phược, không ngăn được ý chí cắt hai từ thân của con. Thế rồi, vào một ngày 30 tháng 7 năm Canh Tý bất chấp sự vận động của Giáo sư Hiệu Trưởng trường Trung Học Chợ Gạo hứa giúp đỡ cấp học bổng cho con để theo học tiếp tục cho hết Ban Trung Học đệ II cấp, con một mực từ chối, vì thân tâm con hiện giờ chỉ có hình bóng Thầy, ngôi Tam Bảo, cùng với đại chúng Tăng Ni, các sư huynh trên núi là trên hết… Do đó lúc 3 giờ sáng, con lại trốn gia đình đi về núi lần thứ 2, và lần này ý nguyện con được thành công, buộc Thầy Nhựt Long cũng như Nội Tổ viết thư thuận ý gửi gấm con cho Thầy và đã hoan hỷ cho con xuất gia đầu Phật tại tổ Đình Linh Sơn với Thầy Bổn Sư là Mẫu trầu. Con trở thành tiểu sơn Tăng của vùng núi Dinh thiêng liêng hùng vĩ của một Tổ Đình vạn niên cổ kính.
Từ đó đến nay con được Thầy hết lòng giáo huấn bao nhiêu lẻ nhiệm mầu của đạo, của ngàn kinh muôn sách suốt 27 năm rồi, có khi thị giả của Thầy, có khi thừa hành Phật sự Giáo Hội cũng từ kim ngôn ngọc ngữ của thầy phó thác cho con và đã trở thành người thay mặt Thầy cũng như Tăng Ni về mặt đối ngoại với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, cũng như sinh hoạt mọi phương diện cùng với Ni trưởng Thượng Huệ Hạ Giác để hoà nhịp đem đạo Phật vào cuộc đời cộng tác với xã hội…Thầy cân nhắc con từng li từng tí, từ Phật sự lớn như tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Thuyết Pháp Giảng Kinh, Thầy đã hộ trì cho con nên sự nghiệp với vai trò hoằng pháp, con trở thành giảng sư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Của Tổ Đình Linh Sơn Cổ Tự và của hàng Tăng Ni hậu côn trong các lớp Phật học cơ bản, trong các trường An Cư Kiết Hạ của Đồng Nai. Đây là phương tiện lớn mà Thầy đã đào tạo cho con đầy đủ pháp khí nhạy bén trên đường hoằng pháp lợi sanh xương minh tịnh độ.
Những năm tháng Thầy gần viên tịch. Thầy cũng đã chứng kiến một trong những người môn đệ như con đã làm nên sự nghiệp đạo pháp đối ngoại. Cũng như đối với Tông Môn Tịnh Độ Non Bồng.
Ngưỡng bạch Giác Linh Thầy, lòng thành kính của con được đơm hoa kết trái làm cho Tông Môn và Giáo Hội tỏ rạng, đoàn kết hài hoà. Con nghĩ rằng khi Thầy xả báo thân mãn nguyện độc sanh. Thầy sẽ rất hoan hỷ nhìn thấy môn đệ mình trưởng thành sự nghiệp đạo, làm rường cột cho mai sau noi gương tiến thủ
Đấy là do niềm tin của con, do hạnh nguyên ngàn đời của con cùng dưới chân Thầy. Nên Thầy đã từng phó thác cho con những Phật sự khó làm, những công việc từ thiện, những sự nghiệp hành chính Giáo Hội, thực hiện phụ trách những thời thuyết pháp nhưng vẫn thành công trên các Phật sự đó trước tuổi quy định chốn thiền môn.
Con còn nhờ lại, ngày nào năm 1963, vào mùa Đông, một vị Tăng đòi hỏi việc gì đó… ngoài Phật pháp? Nhưng thầy không đáp ứng được sở nguyện của vị Tăng nên thầy đó tức giận đánh thầy gãy vài cái răng, hay tin này giáo đoàn chúng con rất xúc động, có vị nóng giận đòi trả đũa, đánh lại vị Tăng đó, nhưng Thầy khuyên can, bảo chúng con phải nhẫn nhịn, một tay thầy áp lên má chổ răng gãy. trong khi miệng thì cười thật hoan hỷ và sẵn sàng tha thứ lỗi lầm phạm thượng của vị Tăng. Gương hạnh và hình bóng đó con không bao giờ quên được. Đồng thời cũng là một đề tài lớn trong các đề tài, để chúng con bình giảng suốt cuộc đời hành đạo.
Con biết bao nhiêu là chuyện kinh thiên động địa khác nguy hiểm đến báo thân Thầy, nhưng Thầy vẫn xem như dấu chân chim không để vết tích ở trời xanh.
Thời gian lâm trọng bệnh, Thầy được Tăng Ni hết lòng phụng dưỡng, các Bác sĩ nhất là Bác sĩ LƯƠNG PHÁN phó Giám Đốc Bệnh Viện Nguyễn Trãi, chăm sóc Thầy rất chu đáo, nhưng cảnh đời là rất vô thường, khổ không và vô ngã. Thầy đã an nhiên thâu thần nhập định về với Tổ Phật. Trước đó một ngày Thầy đã cho người nhắn con xuống Bệnh Viện để Thầy dặn dò, nhưng vì Phật sự với Giáo Hội, con đến không kịp thì Thầy đã xã báo thân, để lại cho con một niềm nuối tiếc khôn nguôi.
Nhưng Thầy ôi! Thầy sẽ mỉm cười nơi chốn tịch tinh Niết Bàn khi con và đại chúng vẫn giữ một lòng sắt son với tông môn, vẫn nối gót hạnh nguyện của Thầy, vẫn hộ trì cho Ni Trưởng Huệ Giác người kế thừa sự nghiệp Đạo Pháp của Thầy cũng như môn đệ càng ngày càng thăng hoa theo đà tiến, sắp đối đầu vào thế kỷ 21 cùng với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam càng ngày càng tỏ rạng.
Nhất tâm đảnh lễ Giác linh Đức Tôn Sư Hoà Thượng Thượng Thiện Hạ Phước, hiệu Nhựt Ý, biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai tam bái.
Ngưỡng mong giác linh Thầy thuỳ từ lân mẫn chứng minh
Đệ Tử : GIÁC QUANG
Quỳ trước kim quan Thầy
Ngày 4 tháng 8 năm Bính Dần – 1986
tại Giảng Đường Quan Âm Tu Viện
Kính dâng
LỜI CỦA ĐỨC PHÓ PHÁP CHỦ THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH TRUNG ƯƠNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Phát biểu tại lễ chúc Khánh Tuế cho Ngài, khi Ngài viếng thăm Quan Âm Tu Viện cũng như Ni Sư Huệ Giác, trong việc hoằng pháp độ sanh, xương minh Tịnh độ – đã khéo léo điều hành quản chúng Tăng Ni với số lượng đông đảo ổn định được kinh tế nhà Chùa, khiến cho đại chúng được hoà hợp tinh tấn tu hành cho đến ngày nay.
Nhất là tôi đã từng tán thán Sư Trưởng đã dầy công khó khổ hoằng dương pháp môn niệm Phật, quảng bá sâu rộng trong quảng đại quần chúng Phật tử, Pháp môn niệm Phật cũng là cửa ngõ chánh pháp để dẫn dắt chúng sanh bước vào Phật đạo.
Nay tôi vô cùng hoan hỷ, chứng minh công đức của Ni Sư Huệ Giác và hàng giáp phẩm Tăng Ni – Phật tử Quan Âm Tu Viện có lòng thành tín, lễ thỉnh tôi đến Bảo Viện để chúc mừng Khánh Tuế cho tôi. Tôi chứng minh và thọ nhận công đức này….
Lời đạo từ của Hoà Thượng Phó Pháp Chủ
thượng Huệ hạ Thành
tại giảng đường Quan Âm Tu Viện
Ngày 20 tháng 7 năm Kỷ Tỵ – 1989
LỜI ĐẠO TỪ
Của Hoà Thượng THÍCH THIỆN HOÀ, Phó chủ tịch Hội Đồng Trị Sự
Trung Ương GHPGVN nhân chuyến viếng thăm Quan Âm Tu Viện
………Với dư luận thì lúc nào cũng có khen, có chê, nhưng từ khi tôi để tâm đến Hoà Thượng (tức Mẫu Trầu) và tìm hiểu thì mới biết Hoà Thượng là người có công lớn với Đạo Pháp và Dân Tộc.
Tôi không muốn công lao sâu dầy của Hoà Thượng bị mai một nên tôi thân hành đến viếng thăm Hoà Thượng trong lúc tuổi cao sức yếu. Tôi cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho Hoà Thượng mau lành bệnh để phục vụ cho Đạo Pháp trong giai đoạn mới…
Trích dẫn của Hoà Thượng Thiện Hào nhân chuyến thăm Quan Âm Tu Viện, Chùa Long Phước Thọ, Bửu Hoa Ni Viện, Tổ Đình Linh Sơn Tự và Đức Tôn Sư Hoà Thượng.
THƯỢNG THIỆN HẠ PHƯỚC, Biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai
Vào ngày 18 tháng 10 năm Ất Sữu, 1985
LỜI HUẤN TỪ CỦA HOÀ THƯỢNG THÍCH HUỆ HƯNG Trưởng Ban Tăng Sự Trung Ương, nhân chuyến viếng thăm thuyết pháp và chứng minh khoá niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh” lần thứ 26 tại trú xứ Tổ Đình NHỨT NGUYÊN BỬU TỰ, xã Vĩnh Phú, huyện Thuận An, Sông Bé
Vào ngày 20 tháng 9 năm Canh Ngọ. 1990
… Việc xương minh tịnh độ bằng phương pháp mở khoá “BÁ NHỰT TRÌ DANH NIỆM PHẬT” hàng năm của Quan Âm Tu Viện khai tại Tổ Đình Nhứt Nguyên Bửu Tự là một Phật sự có nhiều công đức và hiếm có tại Miền Nam. Thế mà Viện đã tổ chức được 26 khoá vân tập hàng vạn Tăng Ni, Phật tử tứ chương câu hội, bảo đảm đời sống cho đại chúng chuyên tu niệm Phật
- Với quá trình này tôi hết sức và từng tán thán hạnh nguyện độ tha của Hoà Thượng THIỆN PHƯỚC (Mẫu Trầu), chứng minh đạo sư của Nhứt Nguyên Bửu Tự, trong quá trình đó với việc hoằng pháp có nhiều phương tiện độ tha, nên khen chê là điều không tránh khỏi.
- Tôi cũng tỏ lời khen ngợi Ni Sư Huệ Giác đã dầy công hoằng dương pháp môn Niệm Phật này, đã linh động vân tập đại chúng tấn tu đạo nghiệp, công đức này thật qúi báu trong thời mạt pháp và xứng đáng thừa kế tổ tông.
Trích lời huấn từ của Hoà Thượng THƯỢNG HUỆ HẠ THÀNH nhân chuyến viếng thăm Nhựt Nguyên Bửu Tự trong thời gian tổ chức khoá niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh”
KÍNH DÂNG GIÁC LINH NGÀI
Nam Mô Liên Tông Sơ Tổ tây Phương Bồng Đảo khai sơn trùng hưng, xiển dương chánh pháp, xương minh Tịnh độ Thượng Thiên Hạ Phước Việt Nam
Tổ Sư Bồ Tát
NHỚ NGƯỜI
Người khơi ánh sáng giữa nhân gian
Như mẹ hiền gieo chút nắng vàng
Trên đỉnh Tây phương trời bát nhã
Bên chiều Bồng Đảo ý Kim Cang
Đồng Nai nước biếc thương ngàn sóng
Châu Thới trăng trong nhớ mấy hàng
Với cánh hoàng hoa từ thuở ấy
Mà hồn thơ ngát mãi mênh mông
Thi Sĩ ĐOÀN YÊN LINH
KÍNH DÂNG GIÁC LINH NGÀI
Nam Mô Liên Tông Sơ Tổ Tây Phương Bồng đảo khai sơn trùng hưng xiển dương chánh pháp. Xương minh Tịnh độ, Thượng Thiện hạ Phước Việt Nam Tổ Sư Bồ Tát :
BÓNG MẸ BAO LA
Mẹ trong vàng nắng ban mai
Mặt trời trên cánh xuân cài tóc Xuân
Tóc vương xuống cõi bụi trần
Thành lung linh ánh mây tàn xa xa
Mẹ trong bát ngát Ngân Hà
Một dòng sông bạc bao la sóng triều
Cho con thuyền nhẹ cô liêu
Lênh đênh qua bến cát chiều tử sanh
Mẹ hương bát ngát trăng lành
Mà soi sáng mãi bao cành lá đêm
Lá bay mộng cũ qua thềm
Cho vần thơ cũng lặng yên bên đời
Mẹ trong mây trắng rạng ngời
Cho mênh mông cả đất trời quê hương
Con về đón hạt tinh sương
Nghe bao la ánh Thái Dương ngàn trùng
Thi sĩ THÂN THỊ NGỌC QUẾ
Để nhớ huý Nhật Cố Mẫu Trầu
Ngày 1 tháng 8 Nhân Thân
Xin dâng về biển Mẹ
Cánh sen vàng tinh sương
Cho hương hoà trong gió
Thành tiếng gọi trùng dương
Khi bước trần sõi đá
Rướm máu vết thương đời
Con bàng hoàng thảng thốt
Tiếng kêu cầu : Mẹ ơi!
Mẹ về trên cõi thế
Trong tiếng gọi phù du
Cho con nguồn vi diệu
Thoát hỏi bóng đêm mù
Mẹ lắng trong ngàn sóng
Tiếng vẳng gọi mười phương
Người đưa tay nhẹ vớt
Những bọt sóng vô thường
Xin dâng về bóng Mẹ
Khói hương trần chơi vơi
Cho hồn con thanh thoát
Mẹ cành sen tuyệt vời
Thi sĩ THÂN THỊ NGỌC QUẾ
Ngày 27 tháng 8 năm 1992
Kính dâng Giác linh Đức Tôn Sư Hoà Thượng Thượng Thiện Hạ Phước, biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai
…… Đôi dòng tâm sự
Mùa Thu sắp đến, múa Thu nói lên lòng yêu thương của người Mẹ đối với các con, một người Mẹ đầy lòng nhân ái dạy dổ các con cách sống của người thế gian, mùa Thu đã đến, chúng con ngậm ngùi thương nhớ Mẹ, người Mẹ đã hoà hợp Đạo và Đời dìu dắt chúng sanh.
Mẹ dạy: làm con người ở đời phải biết trọng chữ hiếu, nghĩa, nhân, hoà. Còn đi vào đường đạo, chúng con phải có đầy đủ thiện tâm, lòng vị tha nhân ái, tìm não chánh lánh dương trần.
Thật lòng Mẹ thương yêu chúng con như biển rộng bao la không có bờ bến. Vì thế gian còn nặng nhiều nghiệp chướng bệnh căn nên Mẹ phải đi về cõi Tây phương tìm phương thuốc nhiệm mầu chữa trị. Mẹ đi rồi, nhưng Mùa Thu bất diệt, mùa Thu không chết, mùa Thu vẫn sống mãi trong lòng người…
Đường đạo lối đi có nhiều hoa nở
Vườn hạnh tốt tươi do Mẹ vun bồi
Chúng con trí huệ khai minh rộng mở
Muôn người thương nhớ Mẹ. Mẹ đi rồi
Nhạc sĩ Minh Hữu
Ngày 1 tháng 8 năm Canh Ngọ
Đêm Văn Nghệ cúng dường giác linh Đức Tôn Sư
HT Thích Giác Quang