Lễ Vu Lan là một lễ truyền thống của Phật giáo, của chư Tăng Ni Phật Tử Việt Nam cũng như Tăng Ni, Phật Tử trên thế giới. Lễ Vu Lan, là lễ hội của Phật Giáo, là một Đại lễ. Tuy nhiên lễ nầy từ lâu đã được xã hội hóa, trở thành một Lễ hội trong dân gian người Việt. Hằng năm tại các Tự Viện, Tịnh Xá lớn nhỏ của Phật Giáo, có thể còn ảnh hưởng đến những đình đền miếu mạo trong dân gian. Có nơi được đồng bào tổ chức Lễ hội Vu Lan thật quy mô hoành tráng; một đôi khi ảnh hưởng đến việc của xã hội gọi là : “ngày đại hoan hỷ của mọi người”.

Mùa Vu Lan năm nay, người tín đồ Phật Tử đến các Tự Viện Tịnh Xá đông hơn các năm trước, nhưng người đi lễ rất tôn trọng luật lệ giao thông và an toàn xã hội. Theo thông tin Báo Đài thì số người tham dự dù theo Đạo Phật hay không theo Đạo Phật, mọi người vẫn đến tại các địa điểm có lễ hội để tham dự lễ, cúng lễ cầu siêu báo hiếu báo ân Cửu huyền thất tổ, Ong Bà Cha Mẹ quá thế siêu thoát; người hiện tiền tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, tăng long phước thọ, gia đình an cư lạc nghiệp. Đặc biệt, những ai đến với chùa chiền đều không quên cầu nguyên nước nhà luôn được thái bình thịnh trị độc lập tự do.

Ngoài lễ Vu Lan còn có các lễ lớn khác, được tổ chức tại các Tự Viện, Tịnh xá có đông Tăng Ni tập chúng tu học, như : khóa lễ Sám hối (đêm 14/07 âl) , sau an cư kiết hạ có lễ Tự tứ, lễ dâng Y Ca-sa, dâng cúng dường tứ sự cho Chư Tăng Ni trong khoãng thời gian từ 11 giờ 00 đến 12 giờ 00 (ngày Rằm tháng 07 âl).

Trong các lễ nầy có “lễ dâng y Ca-sa” tuy là lễ truyền thống, nhưng vẫn còn xa lạ với số đông Phật Tử mới quy y Tam Bảo. Các Phật Tử làm lễ dâng y có thỉnh cầu tôi minh lý về lễ dâng y Ca-sa và ý nghĩa của chiếc Y Ca-sa.

Y Ca-sa, y là chiếc áo; Ca-sa là hoại sắc, tức là chiếc áo hoại sắc, áo ngã màu; một loại màu không giống với màu sắc được đặt tên và theo quy định của thế gian hữu tình. Nên gọi màu hoại sắc, hoại sắc tức là màu sắc nầy không giống với màu sắc khác của thế gian.

Y Ca-sa là chiếc áo hoại sắc, áo có màu sắc khác với màu sắc thế gian; nên nói là áo xuất thế gian, áo giải thoát, áo ruộng phước. Ao xuất thế gian chính là Pháp y, áo pháp xuất thế, giáp sắt của người đệ tử Đức Phật khi mặc vào là để chống lại, diệt trừ các phiền não trong thế giới sanh tử luân hồi. Như những mũi tên, đao, gươm, giáo, mác không xuyên thủng được, nên Y Ca-sa không còn là Y phục của thế tục nữa, y nầy ở các Đạo khác không có, nên gọi áo giải thoát (trích dẫn Sách Tỳ Ni Hương Nhũ, do Kiến Nguyệt Lão Hòa Thượng biên soạn, Tỳ kheo Thiện Chơn biên dịch, Chùa Hải Tuệ, sau chợ Trương Minh Giảng ấn tống) . Y Ca-sa cũng gọi “Pháp y”, áp pháp mặc vào được giải thoát khổ đau phiền não, sinh tử luân hồi .

Lễ dâng Y Ca-sa có mặt trên thế giới, tại các Quốc gia theo Đạo Phật, mỗi năm vào những ngày sau khóa tu học an cư của chư Tăng Ni, thì các tổ chức Đạo tràng Phật tử được hướng dẫn làm lễ dâng y cho chư Tăng (các nước theo Đạo Phật hệ thống Nam truyền), dâng y cho chư Tăng Ni (các nước theo Đạo Phật hệ thống Bắc truyền và Khất sĩ). Lễ dâng y Ca-sa tại Việt Nam, được các Học phái, Hệ phái, Môn phong pháp phái tổ chức vào ngày Rằm (15) tháng bảy âm lịch, có nơi tổ chức chọn lựa một ngày thuận lợi, nhưng cũng nhằm vào các ngày từ mùng 10 đến Rằm (15) tháng bảy là chính yếu .

Y Ca-sa có nhiều thứ bậc, dành cho những người học Phật, học đạo giải thoát của Đức Phật, phát tâm thọ giới, thọ mặc.

Tuy nói nhiều thứ bậc, nhưng khi người Thích Tử phát tâm thọ giới mang mặc Pháp phục thì người đó đã dứt bỏ những phiền não của thế gian, hoặc phát nguyện dứt bỏ những phiền não cũa thế gian (tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục…)

Gọi là Pháp y tức là chiếc áo không vướng bận thế gian, khi thọ mặc vào thì thầy Tỳ Khưu không còn một mảy may phiền não, ngự phục được những khí độc tham sân si. Theo hệ thống Phật giáo Nam truyền thì chiếc “Pháp y” tu hạnh đầu đà xuất phát từ pháp môn tu của Thầy Tỳ Khưu (chư Tăng) phải lượm vải nhơ nhớp của người bỏ, giặt giũ lại, rồi may y để mặc(Pamsukùlikanga) – Thầy Tỳ Khưu chỉ cần có Tam y với một màu hoại sắc, tức là : – y Tăng già lê – y Uất đa la tăng – y An đà hội (Tecìvarikanga), hoặc loại vải lượm ở các nghĩa địa lộ thiên bên đất An Độ xưa (Sosànika) – Vải người khác không còn cần dùng nữa (Pàpanika) – Vải bỏ bên đường (Rathiyacola) – Vải bỏ nơi đống rác (Sancàracola) – Vải lau chùi cho hài nhi (Soithiya) – Vải đắp cho người bệnh (Nhànacola)..v..v..(trích dẫn sách Hạnh Đầu Đà, trang 06 và trang 11, do nhà dịch giả Nam tông Phật Giáo Đại Tỳ Khưu Bửu Chơn).

Theo Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, chiếc Y Ca-sa (áo hoại sắc) còn gọi là “Y thượng bá nạp” “Đại y” của Tỳ Khưu xuất phát từ loại vải thô sơ, không còn cần dùng trong việc may mặc ở thế gian nữa, loại vải màu hoại sắc, hoặc cùng màu vàng, màu trắng, để có thể nhuộm lại thành một màu vàng sậm, không dùng những loại chỉ bằng tơ, lụa, hàng, nỉ, nhiểu, laine, tố cẩm tự, đồ vật của sanh mạng, cấm dùng màu đen, trắng, xanh, tín, đỏ, vàng anh, màu tươi tốt… (trích trang 3, quyển Luật Khất Sĩ, Giới bổn Tăng, Giới bổn Ni của Đức Giáo Tổ Minh Đăng Quang), loại vải được mang đến cung dưỡng Nhà Sư Khất Sĩ bằng sự phát tâm thanh tịnh, chiếc Y Cà-sa của giáo phái Khất Sĩ được may nối từng miếng vải nhỏ, loại vải mà người đời không còn sử dụng được, nên khi Nhà Sư Khất Sĩ mang vào ngự chế được khí tham sân si của chính mình và còn ngự phục lòng tham sân si của chúng sanh.

Y Ca-sa của Nhà Sư Khất Sĩ chính là chiếc áo bá nạp được kết lại từ miếng vải nhỏ như nói ở trên, nên có bài kinh tụng :

“Ao đã mặc nhiều năm rách rả

“Lượm vải bô chằm vá khiếu khâu

“Khẽ khằm từng miếng kế đâu

“Thành y Bá nạp ngõ hầu che thân

…(trích Kinh Tam Bảo Khất Sĩ, Kệ tụng Nhớ Ơn Phật, trang 158)

Chiếc Y Ca-sa bá-nạp (tức là Y Tăng Già Lê của Nhà sư tu hạnh Khất Sĩ) được may nối từ thật nhiều miếng vải nhỏ, mỗi miếng vải tượng trưng cho mãnh ruộng phước, giúp cho người Phật tử có ý thức về sự tôn kính Sa môn, đại Sa môn, gieo bòn phước điền. Làm gì người thế gian có thể mặc được mà động lòng tham ? Nên nói ngự phục lòng tham của chúng sanh là vậy !

Chiếc Y Ca-sa theo hệ thống Bắc truyền, là Pháp y của Phật, chiếc áo giáp của người tu Đạo Phật, các đạo khác không có, các bộ chư thiên, phi nhân, người đui, điếc, câm, ngọng, lé, lùn, khung dẹo, nói chung người tàn phế không mặc được, dù người đó phát tâm tín thọ học tập cũng không thọ mặc được. Vì đây là Pháp y của Đức Phật, được chư Phật, chư lịch đại Tổ sư truyền trao tận tay cho người tu Phật. Xưa gọi là truyền Pháp ấn, Tâm ấn, truyền Y bát. Xuất phát theo dòng lịch sử Phật Giáo, có từ thời Tổ Sư Ca Diếp đến Tổ Sư thứ 28 Bồ Đề Đạt Ma. Cho đến thời điểm Nhị Tổ Huệ Khả rồi đến Lục Tổ Huệ Năng thường là mang đậm nét truyền thừa Y và Bát (Y Bát) trong chốn Thiền lâm ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên thường truyền thừa cách nầy để gây ấn tượng niềm tin giữa Thầy và Trò. Nhất là các Học phái, Trường phái, Hệ phái, các Môn phong pháp phái biệt truyền ở Việt Nam thường truyền cho nhau từ Thầy cho Trò theo phong cách “truyền đăng tục diệm”, tức là lửa trước truyền nối lửa sau, lửa sau nối tiếp lửa trước, theo cách thức quy cũ “truyền Y Bát” cho nhau. Các vị đệ tử được truyền Y Bát được xem như người đệ tử đó tâm đắc nhất với Thầy Tổ của mình. Cách thức truyền Y Bát sau thời điểm Lục Tổ Huệ Năng không còn sử dụng nữa.

Cũng theo hệ thống Phật Giáo Bắc truyền, thì Y Ca-sa có 3 bậc : Thượng, Trung và Hạ, chia thành chín phẩm.

Bậc Hạ từ y 9 điều đến 13 điều. Ba y nầy mỗi điều có 2 khoản dài, 1 khoản ngắn – Bậc Trung có y 15 điều đến 19 điều. Ba y nầy mỗi điều có 3 khoản dài, 1 khoản ngắn – Bậc Thượng từ 21 điều đến 25 điều. Ba y nầy, mỗi điều có 4 khoản dài, 1 khoản ngắn. Dài nhiều ngắn ít, ý nói thêm Thánh bớt phàm. Y 25 điều tức là Y Bá nạp, vì trong 4 khoản dài, 1 khoản ngắn, tính ra có trên 100 miếng vải nhỏ nối ráp lại, nên cũng gọi Pháp y nầy là y Bá nạp cũng được (theo sách Tỳ Ni Hương Nhũ của Kiến Nguyệt Lão Hòa Thượng, Tỳ kheo Thích Thiện Chơn dịch, chùa Hải Tuệ ấn tống).

Ba y của Phật chế gồm có : 1. An đà hội, tiếng phạn là Antarvàsas, nghĩa là y trong hay y dưới; 2. Uất đa la tăng, tiếng Phạn là Uttara, y khoác vai. Hán dịch là thượng y; 3 . Tăng già lê, tiếng Phạn Samghàti, nghĩa là y có 2 lớp, loại y trùm kín thân thể (trích Yết Ma Chỉ Nam, trang 136 của HT Thích Trí Thủ biên soạn).

Theo quy cách trên, thì chúng ta có thể thấy việc phân định Y Ca-sa của Học phái Khất sĩ đúng ở phần “y trong hay y dưới” để phân định Y Thượng, y Trung và y Hạ. Việc sử dụng Y Tăng già lê của Nam Tông Phật giáo đúng với ý nghĩa y Tăng già lê (2 lớp) trong bộ Yết Ma Chỉ Nam, do Hòa Thượng Thích Trí Thủ minh định.

Những ý nghĩa như trên, giúp người Phật Tử được biết về ý nghĩa của Pháp y, y phục của đệ tử Đức Phật, cũng tức là hiểu được ý nghĩa của chiếc áo Ca-sa và thời điểm lập công đức dâng y Ca-sa.

Hiện nay chiếc Đại y của chư Tăng Ni, cũng như áo quần của Chư Tăng được Giáo Hội gián tiếp chỉ đạo, may mặc một màu hoại sắc (gần như vàng sậm) theo màu sắc Phật Giáo quốc tế.

Lễ dâng y Ca-sa theo Phật giáo thì diễn ra vào ngày 15/07 âl theo hệ thống Phật giáo Bắc truyền và Khất Sĩ (Luật Khất Sĩ, trang 5) ở Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội, Huế, Cần Thơ, các Tỉnh, những nơi có nhiều Tự Viện lớn, cổ như ở Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Tiền Giang. Các Hệ phái, Học phái, Môn phong pháp phái, các Tự Viện, Tịnh xá thường tổ chức Lễ dâng y thật trang nghiêm long trọng vào ngày Rằm tháng 07 âl. Một số nơi diễn ra từ ngày mùng 08 tháng 07 âl đến 15 tháng 07 âl. Thời điểm diễn ra với thời gian như trên là đúng với Pháp tắc Tòng lâm Quy chế mà Phật Tổ đã ban truyền. Vã lại, những lễ nghi phong tục tập quán ở mỗi địa phương, căn cứ vào thời điểm như trên thì thời gian lễ dâng y Ca-sa của Phật Giáo Việt Nam diễn ra từ ngày mùng 08 đến 15 tháng 07 âl, hoặc thời điểm dâng y Cathina của Phật giáo Nam Tông tổ chức vào ngày 15/09 âl tại Việt Nam có thể tôn trọng và chấp nhận được.

Như trong khóa Hạ Phật Lịch 2552 – DL 2008, sau khi giải hạ thì Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Đồng Nai tổ chức Mãn hạ, Lễ Tự tứ, Lễ Vu lan, Dâng y cho chư Tăng Ni tại Tổ đình Long Thiền vào ngày 11/07 âl, chùa Đại Giác tổ chức ngày mùng 08/07 âl, chùa Hoàng An tổ chức ngày mùng 09/07 âl, Trường Trung Cấp Phật Học, Phật Giáo Huyện Nhơn Trạch tổ chức ngày mùng 10/07 âl, chùa Giác Minh tổ chức ngày 12/07 âl, Huyện Định Quán tổ chức ngày 13/07 âl.

Quan Am Tu Viện tổ chức khóa lễ Sám hối, lễ Tự tứ giải chế vào lúc 19 giờ đến 21 giờ đêm 14/07 âl. Lễ Vu Lan Dâng y vào lúc 11 giờ 00 ngày Rằm tháng 07 âl. Trường hợp các Chùa tổ chức dâng y sớm hay muộn, hoặc ở những thời điểm khác ngoài tháng 07 âm lịch tại Việt Nam, thì không còn ý nghĩa nhiều về lễ Dâng y thanh tịnh nữa .

Lễ dâng y Ca-sa là lễ truyền thống và quan trọng đối với người Tu-sĩ Phật Giáo từ các bậc Đại Sa Môn, Sa Môn, chư Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni hằng năm đến ngày Rằm tháng 07 âl đều được sự tín ngưỡng của hằng triệu trái tim Phật tử Việt Nam trong cũng như ngoài nước hướng về , chỉ mong sao cho đến ngày Vu Lan để được đến chùa cúng dường Tam bảo, dâng phẩm vật cúng dường trai Tăng, Dâng cúng Đại Y Ca-sa cho chư Tăng Ni do chính tay mình may vá (theo Luật Khất Sĩ, cũng là luật chung của Đạo Phật, thì chư Tăng Ni mỗi năm có quyền nhận sự cúng dường Y Ca-sa, nhưng vị nào muốn giữ lại, không nhận cái mới thì cũng tốt), Dâng y công đức (Phật giáo Bắc tông và Khất Sĩ), Dâng Y Cathina (Phật Giáo Nam Tông), dâng tứ sự, nhẫn đến tiền bạc, cộng với tấm lòng cao quý chứa đầy sự tôn kính dâng lên cúng dường mười phương chư Phật và hiện tiền chư Tăng Ni từ Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ni Trưởng, Ni Sư đến Tăng Ni đại chúng.

Đặc biệt sự cúng dường dâng y tại các Tự Viện, Tịnh Xá của Phật Giáo chỉ chú trọng vào đạo hạnh, đạo cao đức cả của các bậc Cao Tăng, Cao Hạ; không chú trọng vào địa vị quyền tước, thế lực chức quyền trong Giáo Hội để cúng dường .

Đây là sự tín tâm đặc biệt có một không hai của Phật Giáo cũng như của Phật Tử Việt Nam về lễ dâng y Ca-sa Rằm tháng 07 âm lịch .

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Đại Lễ Dâng Y Ca-sa”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com