Mục Lục

Vào những năm cuối đời Đường đã xảy ra một cuộc khởi nghĩa nông dân do Hoàng Sào lãnh đạo. Trong quá trình tổ chức trấn áp cuộc khởi nghĩa nông dân này thì quyền lực của chính quyền nhà Đường lại bị yếu đi và thu hẹp. Các thế lực cát cứ ở các Phiên Trấn (đơn vị hành chính và quân sự ở các vùng biên cương và các vùng trọng yếu của chính quyền nhà Đường) lại được đà lớn mạnh hơn. Vào năm thứ 4 của Thiên Hựu Đường Ai Đế (năm 907 sau Công nguyên) kẻ thù (kẻ phản bội) của quân khởi nghĩa nông dân cuối đời Đường và là Đường Tuyên Võ Tiết Độ Sứ tên là Chu Toàn Chung sau khi đã tiêu diệt rất nhiều các tập đoàn cát cứ (chiếm đất đòi ly khai) đã dần dần thống nhất được toàn bộ lưu vực sông Hoàng hà.

 Ông đã phế Đường Ai Đế mà tự mình lên ngôi, xây dựng kinh đô và lập nên triều đại mới, tức là nhà Hậu Lương. Bắt đầu từ đó cho đến năm 959 ở vùng Trung Nguyên đã liên tiếp ra đời 5 triều dại là Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, lịch sử gọi là Ngũ Đại. Cũng vào quãng thời gian này, ở một phần miền Bắc và miền Nam đã tồn tại lần lượt 10 chính quyền cát cứ mang tính khu vực, lịch sử gọi là Thập Quốc (10 nước). Thời gian này là thời kỳ phân chia mạnh mẽ nhất của xã hội Trung Quốc cổ đại. Những kẻ cát cứ ở "Ngũ Đại Thập Quốc" thì có người là kẻ quân phiệt của nhà nước phong kiến, có người là kẻ thù (kẻ phản bội) của quân khởi nghĩa nông dân. Họ xâm chiếm đất đai của nhau, đâm chém lẫn nhau, khiến cho nhân dân phải chịu cảnh đao binh khói lửa. Trong bối cảnh lịch sử xã hội như thế thì sự phát triển của Phật giáo cũng thể hiện rõ sự yếu kém và càng ngày càng suy yếu, kém phát triển.

So sánh một chút, ở miền bắc của thời kỳ Ngũ Đại thì Phật giáo càng ngày càng suy yếu, càng ngày càng lụi dần nhưng ở vùng đất bao la rộng lớn phía nam sông Trường Giang thì Phật giáo lại phát triển tương đối mạnh. Các tông phái Phật giáo của Trung Quốc mà có "căn cứ địa" ở miền Nam như phái Tịnh Độ Tông, Thiên Tông và Thiên Thai Tông đều có sự phát triển ở những mức độ khác nhau. Song đánh giá một cách tổng quát thì sự phát triển của Phật giáo ở thời kỳ Ngũ Đại là một quá trình suy thoái kéo dài liên tiếp. Sự phát triển của Phật giáo ở miền Bắc do đó mà ở trong tình thế càng ngày càng yếu đi, càng ngày càng lụi bại. Ngoài một số nguyên nhân về bối cảnh lịch sử và xã hội cùng một vài nguyên nhân của tự thân Phật giáo ra, các thế lực chính trị ở thời Ngũ Đại đều áp dụng chính sách hạn chế sự phát triển của Phật giáo, đây cũng là một nguyên nhân rất quan trọng.

Vào năm đầu tiên của Khai Bình thời Hậu Lương (năm 907 sau Công nguyên), Lương Thái Tổ Chu Toàn Chung lại nêu lên vấn đề các tăng ni phải do Từ Bộ quản lý, đồng thời cầm chỉ việc bí mật độ tăng ni (tức là ai đó xuất gia mà không xin phép chính quyền). Ông quy định rằng, những ai muốn xuất gia thành tăng ni thì phải do Từ Bộ phát cho tờ Độ Điệp (còn gọi là "Từ Bộ Điệp", tức là tờ giấy chứng minh do Từ Bộ cấp cho những tăng ni Phật giáp, việc này bắt đầu có từ thời Đường, các Vương Triều phong kiến sau này vẫn duy trì tục lệ này). Bất cứ một quan sứ nào hoặc quan nha nào cũng không được phép giải quyết việc cho người xuất gia làm tăng ni. Cách làm này là để đặt Phật giáo dưới sự quản lý chặt chẽ của chính quyền phong kiến, không để đặt Phật giáo phát triển vô tổ chức. Sau khi Hậu chúa của nhà Chu Lương là Chu Hữu Trinh lên ngôi, vào năm đầu của Long Đức (năm 921) ông lại đưa ra bàn chuyện không cho phép tự ý độ tăng ni, đồng thời ông còn quy định những ai muốn xuất gia làm tăng ni thì phải đến kinh thành tham gia một cuộc thi về kinh sách Phật giáo do Triều đình phong kiến tổ chức. Những ai đủ tiêu chuẩn đề ra thì mới được phép xuất gia. Vào năm 923 sau Công nguyên, Lý Tồn Húc phế nhà Hậu Lương lập nên nhà Hậu Dường, xưng là Hậu Đường Trang Tông. 

Còn về việc nhà Hậu Lương tiến hành quản lý nghiêm ngặt và hạn chế sự phát triển của Phật giáo thì Hậu Lương Trang Tông Lý Tồn Húc lại nâng đỡ và đề xướng Phật giáo. Ông còn qua lại thăm viếng rất nhiều lần với các cao tăng Đại đức Phật giáo để làm ấm lên mối quan hệ căng thẳng trước đây giữa những người thống trị của giai cấp phong kiến với Phật giáo. Vào năm ông lên ngôi thì vào ngày Đản Sinh Phật (8-4 âm lịch), ông đã cho làm cơm chay khoản đãi hàng nghìn tăng ni ngay trong nội cung. Vào năm sau, ông lại mời thiền sư ở chùa Hưng Hoá vào trong Nội Điện để ông tham vấn về Phật pháp. Hậu Đường Trang Tông còn mở giới đàn lưu ly ở Tung Sơn vào ngày sinh nhật của mình để độ cho hàng trăm người xuất gia, gia nhập tăng đoàn Phật giáo.

Vào năm đầu tiên của Thiên Thành đời Hậu Đường (năm 926) Minh Tông Lý tự Nguyên lên ngôi. Khi ông vừa lên ngôi đã ban chiếu rằng: Những ngôi chùa thờ Phật trước đây đã xây dựng thì nay không được phép tuỳ ý phá bỏ, nhưng từ nay trở đi cũng không được phép tự ý xây dựng chùa một cách vô tổ chức, nếu như có ai muốn xuất gia (đi tu) thành tăng ni thì phải làm theo đúng nghi thức của Phật giáo. Ngoài việc thọ giới ở quan đàn ra, không được tự ý độ tăng (cho xuất gia) mà không xin phép và được sự đồng ý của Từ Bộ. Vào năm sau, đứng trước những việc như: lợi dụng mình là tăng ni để làm những việc vi phạm pháp luật hoặc là cậy thế thân quen với quan phủ mà làm điều bậy điều xấu, hoặc là có những tăng ni lợi dụng giáo nghĩa Phật giáo để làm mê hoặc vì lừa bịp người khác, Lý Tự Nguyên đã ban chiếu xuống Kinh sư (Kinh Đô) và các huyện, trấn ở các Đạo, Châu, Phủ yêu cầu quản lý chặt chẽ và chỉnh đốn, kiểm điểm nghiêm khắc Phật giáo. Năm thứ 3 của Thiên Thành (năm 928). Hậu Đường Minh Tông lại ban lệnh khắp đất nước rằng: Những ngôi chùa lớn và những tự viện đã có tên thì phải bầu người trụ trì để quản lý tăng chúng. Còn những chùa nhỏ hoặc tự viện tuy có nhiều phòng nhưng không có tượng Phật thì định giá rồi bán cho ai muốn mua thì mua. Tăng chúng và vị trụ trì ở đó do quan viên chủ quản của Triều Đình điều về các ngôi chùa lớn. Những ngôi chùa không ai mua thì dỡ ra lấy gỗ rồi giao lại cho tăng chúng trước đây tu hành ở đây, còn ruộng vườn của những ngôi chùa đó thì bán cho ai muốn mua thì mua. Đường Minh Tông còn ra quy định: "Trong vòng 10 ngày phải hoàn tất những việc kể trên. Nếu như có ai cố tình dây dưa kéo dài hoặc cố ý chống lại, nếu là tăng sĩ thì phạt đi lao dịch 2 năm, nếu là ni cô thì phạt đánh 70 trượng đồng thời cho hoàn tục (trở về người bình thường). Trong số các quan phủ địa phương ai đó cố tình lừa dối Triều Đình thì xử phạt theo pháp luật Triều Đình".

Lần chỉnh đốn Phật giáo này của Đường Minh Tông, ở một mức độ nào đó đã kìm hãm sự phát triển của Phật giáo.

Năm thứ 3 của Thanh Thái đời Hậu Đường (năm 936), một vị quan Tiết Độ Sứ Hà Đông nhà Hậu Đường trấn thủ Thái Nguyên tên là Thạch Kính Đường người dân tộc Sa Đà đã móc nối và quy hàng Khiết Đan, nhận trở thành một vị thần của Khiết Đan (cũng trong năm đó, dân Khiết Đan đổi tên nước thành Liêu), đồng thời kết nghĩa cha con với Chúa của Khiết Đan. Điều kiện của cuộc kết nghĩa này là: Thanh Kính Đường mỗi năm sẽ cống nạp cho chúa Khiết Đan 30 vạn xấp vải lụa, cắt vùng phía Bắc Nhan Môn Quan và toàn bộ vùng đất sở thuộc của U Châu (tức là 16 châu của Yến Vân), mượn quân Khiết Đan để diệt nhà Đường, lập nên chính quyền Hậu Tấn rồi xưng là Tấn Cao Tổ.

Sau khi vị Hoàng đế trẻ này giành được chính quyền, ông liền hạ lệnh bãi bỏ chế độ tổ chức xuống tóc xuất gia ở quan đàn. Ông quy định rằng, những ai muốn xuất gia thành tăng ni thì phải tham dự một kỳ thi hiểu biết về Phật pháp tổ chức công khai tại châu phủ nơi mình sinh sống vào ngày Phật Đản (8-4 âm lịch). Những ai đủ tiêu chuẩn thì được xuống tóc làm tăng ni. Năm thứ 4 của Thiên Phúc (năm 939), Thạch Kính Đường còn ban lệnh yêu cầu tất cả các vị quan, Đại thần và cả Tể Tướng vào ngày Quốc kị (ngày giỗ Tổ) phải đến các chùa thờ Phật dâng hương lễ bái, đồng thời phải mở tiệc cơm chay cúng giàng các tăng ni. Những hành động này của ông đều là do ông muốn dùng Phật giáo để lấy lòng dân. Về sau nước Liêu diệt nước Hậu Tấn, hoàng đế nước Hậu Tấn bị phế truất tên là Thạch Trọng Quý bấy giờ được phong là Phụ Nghĩa Hầu, chuyển về sống ở phủ Hoàng Long, cho ông ta và tất cả người nhà về sống ở một ngôi chùa thờ Phật theo thái thiền và cho binh lính canh gác chặt chẽ. Trải qua bao nhiêu mùa mưa, nắng, họ không được tiếp xúc với người ngoài. Nguyên Phi của Thạch Kính Đường nói với các vị tăng trong chùa thờ Phật theo phái thiền này bằng giọng đầy cảm xúc rằng: "họ Thạch chúng con đã từng làm việc chay cúng giàng hàng vạn tăng ni, sao ngày nay không một ai nhớ đến?" Những kẻ thống trị nhà Hậu Tấn bi rơi vào một tình cảnh như thế này, đây quả là một sự chế giễu thậm tệ đối với những kẻ năm xưa đã bán nước, cúi dầu làm nô lệ.

Nhà Liêu sau khi diệt nhà Hậu Tấn liền khởi binh đánh về phía Bắc. Một viên quan Tiết Độ Sứ Hà Đông của nhà Hậu Tấn trước đây tên là Lưu Trúc Viễn đã xưng đế ở Thái Nguyên, lập nên chính quyền nhà Hậu Hán, xưng là Hậu Hán Cao Tổ. Trong thời kỳ Hậu Hán Cao Tổ Lưu Trí Viễn nắm chính quyền, ông cho rằng Phật giáo là mối hoạ của nước nhà, thế là ông liền áp dụng những chính sách hạn chế nghiêm ngặt đối với Phật giáo. Năm 951, ông Quách Uy lưu giữ Đô Nghiệp nhà Hậu Hán đã khởi binh đánh lại nhà Hậu Hán, lập nên chính quyền Hậu Chu, xưng là Hậu Chu Thái Tổ. Trong thái độ đối với các tôn giáo thì Quách Uy coi trọng Quảng Thuận (năm 953 sau Công nguyên) ông đã từng ban chiếu lệnh phá bỏ 58 ngôi tự viện không có tên ở nội thành phủ Khai Phong, đem hết số tăng ni ở các chùa về nhà làm con em nuôi trong các nhà dân. Từ thời Ngũ Đại trở đi, ở vùng Trung nguyên nạn binh đao xảy ra liên tiếp và kéo dài, nhất là các cuộc tranh giành quyền lợi giữa Vương Triều ở Vùng Trung Nguyên và dân tộc Khiết Đan ở phương Bắc, điều này đã đẩy nhân dân các vùng lâm vào cảnh khốn đốn tột độ. Trước tình hình như vậy, rất nhiều người đã xuống tóc làm tăng ni để trốn tránh binh dịch và nạn phải đi sai dịch. Do dó, trong thời Ngũ Đại, trong sự phát triển của Phật giáo ở đây có tồn tại một vấn đề thêm nghiêm trọng nhất là: Các tự viện mọc lên như nấm sau cơm mưa, kỷ cương bị buông lỏng; Trong một số trường hợp đặc biệt, có một số cuộc khởi nghĩa c nông dân lại giương cao ngọn cờ Phật giáo. Như vào năm thứ 6 của Trinh Minh nhà Hậu Lương (năm 920) một người Trần Châu tên là Vô Ất đã phát động cuộc khởi nghĩa của Ma Ni giáo (tức là Áo Giáo hoặc là Minh giáo, tên quốc tế là zoroater. Giáo phái này ra đời ở Ba Tư, du nhập vào Trung Quốc thời Trung Đường). Những người tham gia khởi nghĩa không được ăn mặn (không ăn thịt - cá), không uống rượu, đêm đêm họ tụ tập nhau lại cùng nhau vẽ ảnh tượng và cúng tế, lấy Phật pháp làm thượng thừa, họ đã từng gây nên những ảnh hưởng nhất định. Cùng thời gian này, nền chính trị - xã hội ở Ngũ Đại bắt đầu loạn lạc kéo dài, xã hội có nhiều tệ nạn hoành hành. Một số kẻ thống trị có học vấn liền muốn về đối nội thì "trị quốc hoá",về đối ngoại thì chống lại những nội nhục mất nước với nhà Liêu để thu phục lại phần đất của người Hoa Hạ (người Trung Hoa) đã bị mất, thống nhất toàn bộ Hoa Hạ.

Năm 954, Quách Uy bị bệnh rồi băng hà, con nuôi của ông ta là Sai Vinh lên ngôi, xưng là Hậu Chu Thế Tông. Sau khi Hậu Chu Thế Thông liền lên kế hoạch vận động cải cách với quy mô cực kỳ to lớn. Nội dung của cuộc cải cách này bao gồm các mặt như quân chính, kinh tế, pháp luật, tôn giáo. Trong đó ông đã tiến hành chỉnh đốn rất khắt khe với Phật giáo. Cuộc chỉnh đốn Phật giáo này được các tăng ni và các tín đồ Phật giáo thế hệ sau gọi là pháp nạn. Giống như các hoạt động huỷ diệt Phật pháp của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế, Bắc Chu Vũ Đế, Đường Thế Tông đã tiến hành trước đây cùng được gọi là "Tam Vũ Nhất Tông Pháp Nạn", lần chỉnh đốn Phật giáo này của Hậu Chu Thế Tông cũng gọi là pháp nạn, đây là lần cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc các Đế Vương phong kiến phát động phong trào tấn công Phật giáo. Trong suốt 6 năm Sài Vinh - Hậu Chu Thế Tông nắm quyền (từ năm 954 - 959) thì các hoạt động chỉnh đốn Phật giáo bắt đầu vào năm thứ hai sau khi ông lên ngôi (tức là năm thứ 2 của Hiển Đức, năm 955), nội dung của cuộc chỉnh đốn đó nhằm vào các mặt sau:

Trước tiênlà giảm bớt số lượng tự viện Phật giáo. Ông ban chiếu rằng: "Tất cả những ngôi tự viện trong thiên hạ mà không có tên tuổi đều phải phế bỏ; tất cả số tượng Phật do công đức cúng giàng và số tăng ni ở các ngôi chùa đó được phép vào tự viện tập trung; từ nay về sau không được phép xây thêm tự viện, nhất là các Vương công, quý tộc và các quan sứ ở các đạo, tiết, chế không được tấu thỉnh xin xây thêm tự viện".

Hai làhạn chế một cách nghiêm ngặt số lượng các tăng ni và việc độ tăng. Ông quy định rằng: Những ai muốn xuất gia làm tăng ni phải xin phép những người thân thuộc, bao gồm cả việc phải lắng nghe lời khuyên bảo của ông, bà, cha, mẹ, cô chú. Sau khi được đồng ý của những người này mới được xin xuất gia; Trước khi trở thành tăng ni phải trải qua cuộc thi rất nghiêm ngặt về đọc thuộc và hiểu nội dung kinh Phật, nếu ai vượt qua được kỳ thi này mới được phép xuất gia, ngoài ra, triều đình còn cho lập những giới đàn để độ tăng ở một vài nơi trong toàn quốc. Những nơi đó là lưỡng Kinh, phủ Đại Danh, phủ Kinh Triệu, phủ Thanh Châu, các địa phương khác thì không được phép lập đàn độ tăng. Cùng thời gian này, Hậu Chu Thế Tông còn quy định rằng: "địa phương trong toàn quốc mỗi năm phải tiến hành một đợt thống kê toàn diện đối với các tăng ni ở trên địa phận mình, lập thành hai quyển sổ, một quyển gửi lên cho Từ Bộ quản lý giám sát, một quyển báo lên đích thân Hoàng Đế. Những tăng ni đã chết thì bị gạch tên trong sổ sách, và không được độ người khác để bổ sung".

Ba làcấm chỉ nghiêm ngặt các việc không tốt trong Phật giáo. Các việc không tốt bị cấm chỉ bao gồm: không cho phép các tăng ni và các tín đồ xả thân vì Phật sự, không cho phép những người quá thành kính với Phật tự động chặt chân cắt tay để biểu thị lòng thành kính, không cho phép các hành động huỷ hoại thân thể như luyện đỉnh (đốt cỏ ngãi trên đầu), đốt chân đốt tay trong các pháp hội và những lúc tụ họp đông để mê hoặc lòng người".

Ngoài ra ông còn cho tiến hành các việc như thiêu huỷ tượng Phật để đúc thành tiền, cùng với việc phá bỏ để giảm bớt số lượng tự viện thì những bức tượng Phật bằng đồng ở những ngôi chùa bị phế bỏ được nhà nước thu gom về và những bức tượng Phật bằng đồng còn lại trong nhân gian sau khi được thiêu huỷ thì được đúc thành tiền đồng để bổ sung cho nền kinh tế của nhà nước phong kiến.

Để giúp cho các hoạt động chỉnh đốn Phật giáo được tiến hành thuận lợi, Hậu Chu Thế Tông còn ban bố một số pháp lệnh vô cùng nghiêm ngặt. Ông quy định rằng, ai làm trái với những quy định về chỉnh đốn Phật giáo nói trên thì phải giải đến cho quan phủ xét xử, bị đưa đi đày ải ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu người vi phạm là tăng ni thì bắt phải hoàn tục, nếu người vi phạm mà là dân thường thì xử theo pháp luật. Lần chỉnh đốn Phật giáo này Hậu Chu Thế Tông là một trong những nội dung quan trọng trong các biện pháp cải cách đồng bộ của ông ta. Mục đích của củng cố nền thống trị của nhà nước phong kiến, đồng thời xây dựng quân đội hùng mạnh. Theo con số thống kê trong sách sử để lại, lần chỉnh đốn Phật giáo này của Hậu Chu Thế Tông đã cắt giảm đi 3 vạn 300 ngôi chùa, giữ lại có 2694 ngôi chùa, tức là chỉ giữ lại 1 phần 10 số chùa. 

Ông chỉ cho giữ lại 61.200 tăng ni, còn hàng chục vạn tăng ni khác đều bị bắt hoàn tục. Điều này đã chứng minh rằng, công việc chỉnh đốn Phật giáo của Hậu Chu Thế Tông đã thu được kết quả nhất định. Xét từ kết quả và nội dung lần chỉnh đốn Phật giáo này của Hậu Chu Thế Tông ta thấy rằng, trong hoạt động chỉnh đốn Phật giáo của ông thì ông không hề diệt Phật pháp, tính chất lần chỉnh đốn Phật giáo này của ông khác hẳn với các "pháp nạn" lần trước. Nguyên nhân của việc này là, ông tiến hành hạn chế nghiêm ngặt Phật giáo nhưng trong bối cảnh là vẫn để cho Phật giáo tồn tại, điều này không hề xuất phát từ phương diện tín ngưỡng chủ quan cá nhân. Xét từ góc độ sự phát triển lâu dài của Phật giáo mà nói thì lần chỉnh đốn này đã loại bỏ một số hiện tượng không tốt, Phật giáo từ đó mà được chỉnh đốn cho tốt đẹp hơn. Song có một điều là, bao nhiêu lâu nay, Phật giáo phương bắc chỉ còn tồn tại một cách yếu ớt, qua lần sóng gió thì Phật giáo lại càng suy yếu hơn.

Như trên đã từng nói, ở thời kỳ Thập quốc, so với Phật giáo ở phương bắc thì phật giáo ở phương nam lại liên tục phát triển. Sở dĩ có điều này là vì các chính quyền cất cứ ở các khu vực miền nam như Ngô Việt, Nam Hán, Mân, Nam Đường có thuốc cầm quyền tương đối dài, nền chính trị xã hội ổn định. Ngoài ra, các vị Đế Vương của các chính quyền kể trên phần nhiều là những có tình cảm nồng hậu với Phật giáo, họ đều bảo vệ Phật giáo và sử dụng Phật giáo như một công cụ phục vụ mục đích thống trị. Như người thống trị của chính quyền nhà Mân tên là Vương Thẩm Trí đã cho xây dựng nhiều chùa chiền, chỉ riêng trên đất nhà Mân đã có trên 300 ngôi chùa; Người thống trị của chính quyền Nam Hán tên là Lưu Sướng đã cho đúc tháp thép thờ nghìn Phật ở Quảng Châu, ngôi tháp đó trải qua hàng nghìn năm nay hiện giờ vẫn còn; Người thống trị của chính quyền Ngô Việt tên là Hoằng Thích trong cùng thời gian Hậu Chu Thế Tông tiến hành chỉnh đốn Phật giáo thì ông đã từng hiệu đính câu chuyện về Vua A Dục (vị Vua ở thế kỷ III trước Công nguyên ở Ấn Độ cổ đại), cho đúc 84000 tháp thờ Phật nhỏ bằng đồng phân phối trên toàn đất Ngô Việt; Người thống trị của chính quyền Nam Đường tên là Lý cảnh cùng với Vương công, Đại thần đều là những người quý trọng các ngôi chùa, những ngày chính sự êm đềm này, sử sách đều nói rằng nhà Nam Đường hiếu Phật. 

Mỗi lần xây tự viện họ đều cấp ruộng đất để các tăng ni tăng gia sản xuất. Nhưng hậu chúa là Lý Dục thì lại cho xây hơn 10 ngôi chùa thờ Phật trong cung, toàn bộ đô thành có đến hàng vạn tăng sỹ, họ đều được quan phủ cung cấp số tiền sinh hoạt hàng ngày. Mỗi lần từ triều đình trở về, Lý Dục lại vùng vợ khoác lên trên người bộ y phục của tăng ni, quỳ bái Phật, tụng kinh... Do tình hình ở miền nam là như vậy nên trong giới Phật giáo phương bắc đã có vài cao tăng đại đức trốn xuống phía nam, có một số tăng đoàn Phật giáo cũng bỏ trốn xuống Giang Nam. Tông phái Phật giáo ra đời từ thời kỳ Tuỳ Đường thì nay trên mảnh đất miền bắc - nơi họ "chào đời" - lại càng yếu đi và ít dần, còn tông phái Phật giáo có "căn cứ địa" ở miền nam như Tịnh Độ Tông, Thiền Tông và Thiên Thai Tông thì vẫn tiếp tục phát triển. Đặc biệt là Thiền Tông đến lúc này đã phát triển thành 5 tông phái thiền đó là: Tào Động Tông (Thiền Tào Động), Lâm Tế Tông (Thiền Lâm Tế), Pháp Nhãn Tông (Thiền Pháp Nhãn), Vân Môn Tông (Thiền Vân Môn) và Quy Ngưỡng Tông (Thiền Quy Ngưỡng). Ngoài ra, ở phía Nam vào thời kỳ Thập quốc việc chép kinh diễn ra rất sôi nổi và kính cẩn. Có một số tăng sỹ Phật giáo trên cơ sở chép lại tổng mục các kinh Phật, họ đã đem toàn bộ các quyển kinh và quyển luận tập hợp lại thành một bộ "kinh Đại Tạng" của Phật giáo. Điều này đã gây nên một tác động kích thích rất mạnh đối với việc tăng cường thu thập và tìm kiếm các sách sử văn hoá Phật giáo.

Hậu Chu Thế Tông Sài Vinh dự định làm Hoàng Đế trong 30 năm. Ông sắp đặt như sau: 10 năm mở mang bờ cõi thiên hạ, 10 năm chăm lo giáo dục trăm họ, 10 năm quản lý đất nước thật an vui, bình yên. Theo kế hoạch này ông đã cho xây dựng mở rộng Phong Thành, biến nó thành một thành phố mới phồn hoa thay thế cho các thành phố Lạc Dương và Trường An; ông ta đã chinh phục được nước Thục, thu hàng được nước Tần và 3 lần đánh Nam Đường, thống nhất toàn bộ phương bắc, lấy sông Trường Giang làm ranh giới với Nam Đường. 

Ông đã vài lần đánh nước Liêu, thu được thắng lợi trong trận chiến ở Cao Bình, khích lệ niềm tin cho các nhân sỹ ở vùng Trung Nguyên thu phục vùng đất đã bị mất. Năm 959, ông ta đích thân dẫn quân tiến lên phía bắc đánh nhà Liêu, dự định thu hồi vùng Yến Vân đã bị mất, nhưng không may ông mắc bệnh, không bao lâu sau thì qua đời, hưởng thọ 39 tuổi. Các hoạt động nam chinh bắc phạt và cải cách của Hậu Chu Thế Tông trong thời kỳ ông trị vì, trong đó bao gồm cả việc chỉnh đốn Phật giáo, giảm bớt chùa thờ Phật và tăng ni thì đều là những việc xếp đặt cơ sở nền móng vững chắc cho sự nghiệp thống nhất của nhà Bắc Tống sau này.

Vương Chi Bình




Có phản hồi đến “14. Vì Nước Mạnh Chấn Hưng Phật Giáo - Chu Thế Tông Lần Thứ Tư Gây Nên Pháp Nạn”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com