Tuyên Thống năm thứ 3, 72 tuổi. (1912/13)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi kiết thiền thất trong bốn mươi chín ngày đêm, đề xướng tọa hương, an cư kiết hạ, theo tất cả quy củ pháp thức. Đến tháng chín, cách mạng Vũ Hán lan tràn đến Vân Nam. Vùng địa phương bị loạn lạc, thành Tân Châu bị bao vây, bức bách nguy hại. Tôi đến điều giải. Nhân vì quan tổng binh Lý Căn Nguyên hiểu lầm nên phái binh lính đến vây núi Kê Túc. Tôi giải thích tự sự cho ông ta. Sau đó, ông cho binh lính rút lui và lại quy y Tam Bảo.

(Phần phụ chú của ông Sầm Học Lữ, người viết lại quyển biên niên tự thuật của thiền sư Hư Vân:

Xem thêm:

Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân - Phần 1

Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân - Phần 2

Quyển biên niên tự thuật này do chính thiền sư Hư Vân thuật lại bằng miệng, nhưng Ngài chỉ nói sơ lược thôi. Theo người viết lại quyển biên niên tự thuật này, khi duyệt lại quyển biệt ký tỉnh Vân Nam mới biết rõ sự việc tường tận, càng thấy ân đức của Ngài thật vô lượng. Quyển biệt ký ghi lại như sau:

Vân Công tại Vân Nam hoằng pháp độ sanh. Những tai nạn được Ngài cứu giúp, nay sơ lược kể lại:

Việc thứ nhất là trong năm cuối triều vua Tuyên Thống, quan tri huyện Tân Xuyên họ Trương, người Trường Sa, tánh tình nóng nảy. Nhân huyện Tân Xuyên bị trộm cướp liên miên, họ Trương trừng trị thẳng tay, giết rất nhiều người, mà trộm cướp lại còn tăng nhiều hơn trước. Chúng cùng nhau kết hội đảng. Các thân sĩ vì muốn bảo vệ gia đình nên phải gia nhập vào các hội đảng, nên bị họ Trương trừng trị giết hại. Tăng nhân núi Kê Túc, những ai không tu đúng theo pháp cũng bị bắt cả vài mươi người, chỉ có Vân Công luôn được họ Trương cung kính lễ bái. Khi cách mạng Tân Hợi bộc phát, huyện Tân Xuyên hưởng ứng đầu tiên. Quần chúng kéo đến bao vây dinh huyện. Họ Trương cố thủ, không được viện trợ bên ngoài, chỉ còn chờ chết. Vân Công xuống núi đi thẳng đến dinh huyện. Những người đang bao vây dinh huyện thấy Ngài đến liền nói: “Tên Trương này rất ác độc. Xin Ngài hãy dụ hắn ra để chúng con giết, hầu xoa dịu lòng căm phẩn của quần chúng.”

Nghe thế, Ngài không nói chi. Nhưng khi vị thủ lãnh đến, Ngài liền bảo: “Giết họ Trương không khó. Vùng biên địa này có nhiều tin đồn thất thiệt. Việc lớn chưa định đoạt được. Chư vị vây hãm thành của quan tri huyện, khi viện binh đến thì chư vị sẽ bị trừng phạt nặng nề.”

Viên thủ lãnh hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy, Ngài có lời dạy gì chăng?”

Ngài đáp: “Tôi nghe rằng Vương Công tỉnh Tứ Xuyên trên đường kinh lý, đã đến Đại Lý, tức chỉ cách đây hai ngày đường. Chư vị đến gặp Vương Công mà kể tội, thì họ Trương sẽ bị trừng trị đúng theo pháp luật, còn chư vị lại không tội vạ gì hết.”

Viên thủ lãnh nghe theo lời dạy của Ngài, đóng quân ngoài dinh huyện. Vân Công đi vào dinh huyện, thấy họ Trương phẩn uất, đang định ra ngoài dinh ứng chiến. Khi thấy Vân Công bước vào, họ Trương liền cầm tay và nói: “Con đã làm tròn bổn phận của mình. Duy chỉ làm phiền Ngài là cho con một miếng đất để xây phần mộ dưới chân núi Kê Túc. Con thật cảm ơn công đức của Ngài.”

Vân Công đáp: “Không cần thiết đâu! Thân sĩ ở đây kính trọng Trương Tịnh Hiên. Hãy mời ông ta đến bàn luận với dân chúng.”

Trương Tịnh Hiên đến nghị luận với viên thủ lãnh. Quả nhiên, sau đó quần chúng giải tán. Trương Tịnh Hiên đi thẳng đến Đại Lý gặp Vương Công xin viện binh, giải vây dinh huyện. Khi Trương Tịnh Hiên đi khỏi, tỉnh Vân Nam tuyên bố độc lập. Thái Ngạc nhậm chức đô đốc. Con của họ Trương được cử làm ty trưởng ngoại giao vì là bạn đồng học của họ Thái. Sự việc giải quyết xong, họ Trương gởi thơ đến cảm tạ Vân Công như sau: “Ngài không những cứu mạng sống con mà lại còn tạo phước cho huyện Tân Xuyên. Nếu không có Ngài thì thù cha bị giết, con mình không báo phục sao!”

Việc thứ hai lại quan trọng hơn nữa, xảy ra như sau:

Khi Dân Quốc được thành lập, ở Tây Tạng, đức Phật sống cùng vương công quần thần ỷ đất đai hiểm trở, đường xá xa xôi, không tuân lệnh theo chánh phủ đương thời treo cờ cách mạng. Chính quyền Trung Ương ra lịnh cho quân tỉnh Vân Nam do tướng Ấn Thúc Hoàn thống lãnh, kéo quân sang trị tội. Quân tiền phong đã đến huyện Tân Xuyên. Vân Công sợ rằng nếu chiến tranh xảy ra thì vùng biên cương này không thể tránh khỏi hiểm họa, nên theo đoàn quân tiền phong đến Đại Lý, gặp tướng họ Ấn. Vân Công nói: “Người Tây Tạng đều tin theo Phật pháp. Nếu bảo người nào thông hiểu Phật pháp qua Tây Tạng thương thuyết thì sẽ giải quyết được sự việc mà không cần dùng binh.”

Tướng họ Ấn đồng ý, lại mời Vân Công làm pháp sư tuyên úy. Vân Công nói: “Tôi là người Hán, đi qua đó sợ sẽ bị thất bại. Hãy thỉnh đức đạt ma hiệu là Đông Bảo, người Lạp Xuyên, là vị xuất gia lâu năm, lại có đức độ, được người Tây Tạng cung kính tín phục và tôn Ngài là Pháp Vương Tứ Bảo. Nếu vị này đi qua đó thì sự việc chắc sẽ thành công.”

Nghe thế, tướng họ Ấn viết thơ nhờ Vân Công mang đến để gặp ngài lạt ma Đông Bảo cùng phái quân tùy tùng theo hầu giúp. Mới đầu ngài lạt ma Đông Bảo khước từ, viện lý do là già yếu. Vân Công liền nói: “Thảm họa của quân Triệu Nhi Phong, người Tây Tạng cho đến nay vẫn còn run sợ. Ngài tiếc chi ba tấc lưỡi mà hại đến muôn ngàn sanh mạng dân chúng!”

Ngài Đông Bảo đứng dậy đáp: “Được! Tôi sẽ đi! Tôi sẽ đi!”

Ngài lạt ma Đông Bảo thọ nhận mệnh lệnh đi Tây Tạng. Cùng đi với ngài Đông Bảo là lão hòa thượng Pháp Ngộ. Sau khi qua Tây Tạng, họ ký hòa ước rồi trở về. Tại Vân Nam, tướng họ Ấn liền bãi binh. Dân quốc thống nhất thành một khối. Bao năm Hán-Tạng luôn xích mích, chiến tranh thống khổ không ngừng, đến nay tạm điều giải. Hòa bình an lạc mãi trong ba mươi năm.

Việc thứ ba là sau khi Vân Công thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, Ngài luôn ban bố Phật pháp, giáo hóa chúng dân. Quan dân sĩ thứ vùng địa phương ngày càng thêm kính trọng. Cho đến cô nhi quả phụ, ai ai cũng gọi Ngài là lão hòa thượng Hư Vân. Cách mạng Tân Hợi nổi lên, triều Thanh thoái vị. Các tỉnh trưởng đuổi tăng ni, phá chùa chiền, làm mưa gió một thời. Lúc ấy, vị tướng tỉnh Vân Nam là Lý Căn Nguyên, vì ghét vài ông tăng không chịu giữ giới luật, nên định kéo quân lên núi đuổi tăng chúng, phá chùa chiền. Khi sắp lên núi, ông hỏi quan quân địa phương là tại sao Vân Công, một lão tăng nghèo hèn, mà lại thâu phục được lòng dân chúng, chắc có việc chi kỳ quái. Vì vậy, ông ra lệnh bắt giam Ngài. Thấy việc không may, hiểm họa sắp đến, tăng chúng các chùa đều bỏ trốn đi cả. Trên một trăm vị tăng còn ở lại với Ngài, tất cả đều lo sợ, lại khuyên Ngài hãy đi lánh nạn. Vân Công đáp: “Các vị muốn đi thì cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo thì lẫn trốn có ích chi? Tôi sẵn sàng đem thân mạng mình hy sinh cho Phật pháp.”

Toàn thể đại chúng an lòng ở lại với Ngài. Vài ngày sau, quả nhiên nhiếp tướng Lý Căn Nguyên thống lãnh quân sĩ tiến lên núi, đóng quân tại chùa Tất Đàn, phá tượng đồng Đại Vương, tượng Phật, điện chư Thiên tại Kim Đảnh, núi Kê Túc. Vì việc cấp bách nên Vân Công một mình đơn độc xuống núi, đi thẳng vào trại lính, đưa thẻ trình cho lính gác cổng. Lính gác nhận diện được nên bảo Ngài hãy mau trốn đi chỗ khác, nếu không thì chỉ chuốc lấy tai họa, chắc sẽ bị giết hại. Vân Công không quay về, lại tự đi thẳng vào doanh trại, thấy Lý Căn Nguyên cùng quan bố chánh Triệu Phiên đang ngồi trong nội điện. Vân Công tiến đến trước mặt họ làm lễ. Họ Lý vẫn không quay mặt lại nhìn Ngài. Vì Triệu Phiên đã từng quen biết Vân Công thuở trước, liền hỏi Ngài đến để làm gì. Vân Công trần thuật mọi sự việc. Lúc ấy, họ Lý với sắc mặt nóng giận, nghe thế liền hỏi: “Phật giáo dùng để làm gì, có ích lợi chi?”

Vân Công đáp: “Ấn đức giáo hóa của thánh nhân thật vô lượng. Nói rộng ra, Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác… Từ xưa, chánh quyền và tôn giáo cùng lập hạnh. Chánh quyền lo việc trị an cho dân chúng. Tôn giáo lo dạy dỗ chúng dân làm lành lánh ác… Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Gốc nếu chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình.”

Sắc mặt họ Lý dịu xuống đôi chút, lại hỏi: “Vậy còn tượng đồng tượng gỗ để chi vậy, chỉ tốn hao tiền của thôi chứ gì?”

Vân Công đáp: “Lời Phật là tướng của pháp. Tướng biểu hiện Pháp. Nếu không có tướng biểu hiện thì người dân không thể biết đến Pháp, hoặc họ không khởi tâm cung kính nể sợ. Đối với con người, tâm nếu không cung kính, thì việc ác nào cũng dám làm, tạo thành họa loạn. Những tôn tượng trong chùa chiền ở Trung Quốc thường được tạo bằng đất đá gỗ mộc, cũng giống như các tượng đồng ở các nước Đông Tây. Nói theo thế gian, những tôn tượng này, bất quá chỉ khiến cho chúng dân có chỗ nương tựa, cùng thầm khởi tâm cung kính tín phục, diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngôn từ không chi diễn đạt. Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy đức Như Lai!”

Họ Lý nghe lời phân giải nên rất vừa lòng, liền bảo lính hầu mang trà bánh ra đãi Ngài. Họ Lý lại hỏi: “Nếu thế, tại sao các thầy tu thay vì làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội?”

Vân Công đáp: “Hòa thượng chỉ là danh xưng, có phàm có thánh, sai biệt rõ ràng; không thể thấy một hai ông thầy hư đốn mà lại khinh khi toàn tăng chúng. Không thể phỉ báng Khổng Tử chỉ vì một hai người nho sinh hư hoại. Như nay tiên sinh thống lãnh binh sĩ. Tuy kỷ cương quân đội nghiêm minh mà có phải mỗi mỗi binh lính đều thông minh chánh trực như Ngài đâu! Biển cả bao la vì chứa đựng muôn loài, không phân biệt cá tôm. Tánh Phật pháp rộng như biển cả, không chi không dung chứa. Chư Tăng nhậm thừa lời Phật dạy, hộ trì Tam Bảo, ẩn mật lạ kỳ, âm thầm hóa độ chúng sanh, diệu dụng rõ ràng, không phải là những người phế thải!”

Sắc mặt họ Lý vui lên, lại cùng Vân Công trò chuyện. Chốc lát nét mặt ông nở một nụ cười. Chốc lát ông lại cúi đầu cung kính. Họ Lý giữ Vân Công lại để dùng cơm tối, đốt đuốc đàm đạo; lời nói cùng ví dụ rõ ràng, lý lẽ thâm sâu; bàn luận từ nhân duyên nghiệp quả, cho đến lưới nghiệp giao thức, cùng chúng sanh tương tục.

Họ Lý tiếp nhận hết tất cả lời lẽ và rất cung kính dung mạo oai nghi của Vân Công. Ông chợt thốt ra lời than: “Phật pháp cao siêu như thế mà con lại giết tăng phá chùa. Ôi nghiệp tội nặng vô cùng. Vậy con phải làm sao?”

Vân Công đáp: “Đó chỉ do tánh khí nhất thời thúc đẩy, không phải là tội của Ngài. Xin hãy nguyện sau này, hết sức hộ trì Tam Bảo. Vậy, công đức to lớn biết chừng nào!”

Tướng họ Lý vui mừng hớn hở. Hôm sau, ông theo Vân Công đến chùa Chúc Thánh, sống lẫn lộn với tăng chúng, ăn cơm chay vài ngày. Khi ấy, trên núi bỗng hiện ra một luồng ánh sáng màu vàng, bay từ đảnh núi xuống chân núi. Màu sắc cây cỏ đều biến thành màu vàng kim. Tương truyền trong núi có ba loại ánh sáng: Một là ánh sáng của chư Phật. Hai là ánh sáng màu trắng bạc. Ba là ánh sáng màu vàng. Ánh sáng của chư Phật, hằng năm đều hiện rõ, còn ánh sáng màu trắng bạc và màu vàng thì từ lúc khai sơn đến nay, ít có hiện ra. Họ Lý cảm động vô cùng, nguyện làm đệ tử Vân Công, lại thỉnh Ngài làm tổng trụ trì toàn núi Kê Túc, rồi dẫn quân rời khỏi núi. Việc này, nếu không phải do đức tu hành khổ hạnh của Vân Công thì làm sao chuyển tâm được viên tướng họ Lý trong khoảng sát na!)

Mùa đông, hội Phật giáo Đại Đồng tại Thượng Hải và hội Phật giáo Trung Quốc có sự tranh biện nên đánh điện tín đến Vân Nam, mời tôi lên hòa giải. Đến Thượng Hải, tôi gặp các thầy Thái Hư, Phổ Đường, Nhân Sơn, Đế Nhàn, cùng nhau thương thuyết hòa giải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo. Tôi cùng hòa thượng Kỳ Thiền đi Bắc Kinh, trú tại chùa Pháp Nguyên. Hoà thượng Kỳ Thiền đột nhiên nhuốm bệnh rồi ngồi xếp bằng thị tịch. Tôi đứng ra tổ chức lễ an táng, đem linh cữu về Thượng Hải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi khai mở đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo cùng làm lễ truy điệu an táng Kỳ Thiền thiền sư. Tôi nhận lãnh công văn hai tỉnh Vân Nam và Quí Châu cùng công văn chi hội hai miền Vân Nam-Tây Tạng. Khi sắp trở về Vân Nam thì Lý Căn Nguyên gỏi thơ giới thiệu đến tỉnh trưởng Vân Nam, tức Thái Tùng Ba, và chư vị quan chức các tỉnh để hộ trì Phật pháp.

(Đại sự trong năm: Mồng chín tháng tám, dân quân khởi nghĩa tại Võ Xương. Tháng mười một, hạ thành Nam Kinh.)

Trung Hoa Dân Quốc nguyên niên, 73 tuổi. (1912/13)

Sau khi trở về Vân Nam, tôi liền thành lập chi hội Phật giáo. Tại cung Vũ Xương, khai mở đại hội Phật giáo. Tôi thỉnh thầy Liễu Trần thiết lập chi hội Phật giáo tại Quý Châu. Vị Phật sống, lạt ma Tây Tạng từ vùng đất xa xôi cùng đến với rất đông vị lạt ma khác. Chúng tôi bàn thảo việc mở trường học Phật giáo, xây nhà thương, lập các hội từ thiện, tổ chức đoàn truyền giáo. Trong năm đó có một việc nhỏ đáng ghi.

Số là có người nông dân, đem một con két biết nói đến phóng sanh. Lúc đầu nó còn ăn thịt, nhưng sau khi được quy y, dạy niệm Phật rồi thì không còn thích ăn thịt nữa. Nó rất thuần thiện, tự biết ra vào, mỗi ngày thường niệm Phật và thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm không ngừng nghỉ. Ngày nọ, nó bị một con diều hâu bắt cắp đi. Lúc bay trên không trung, chỉ nghe tiếng Phật thôi. Tuy chỉ là loài vật, đến lúc báo thân sắp hết, chết sống kề cận, mà không xả bỏ niệm Phật. Chẳng lẽ con người lại không bằng được như con két này sao?

Tôi ở lại chùa Côn Minh qua mùa đông.

(Đại sự trong năm: Mồng một tháng giêng, tiên sinh Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng Thống lâm thời tại Nam Kinh. Tháng hai, vua Tuyên Thống tuyên bố thoái vị. Nhà Mãn Thanh mất. Tham nghị viện đồng cử Viên Thế Khải nhậm chức phó tổng thống lâm thời. Tỉnh trưởng tỉnh Tây Xuyên, Duẩn Xương Hành, định đem quân vào Tây Tạng.)

Dân Quốc năm thứ 2, 74 tuổi. (1913/14)

Vừa thành lập chi hội Phật giáo miền Vân Nam-Tây Tạng, liền ghi nhận tất cả tài sản chùa chiền tự viện trong vùng và dự trù hoạch định những chương trình mới. Những việc trên đòi hỏi phải tường trình với chính quyền địa phương. Có quan trưởng ty dân chánh là La Dong Hiên, thường gây rất nhiều trở ngại, khiến chúng tôi khó tiến hành, làm những việc đã được hoạch định. Khi ấy, tỉnh trưởng Thái Tùng Ba thường đến hòa giải, nhưng không kết quả. Đức Phật sống cùng các hội đoàn địa phương thỉnh tôi đi Bắc Kinh mang việc này trình lên chính quyền trung ương. Gặp quan tổng lý nội các, Hùng Hi Linh, trợ giúp rất nhiều, lại thuyên chuyển La Dong Hiên trở về Bắc Kinh. Nhậm Khả Đăng được đưa về làm dân biểu. Tôi trở về Vân Nam. Họ Nhậm đối với những sự việc liên hệ đến Phật giáo đều tận tình giúp đỡ.

(Đại sự trong năm: Tháng mười, Viên Thế Khải cùng Lê Nguyên Hồng chánh thức được cử làm phó tổng thống.)

Dân Quốc năm thứ 3, 75 tuổi. (1914/15)

Tỉnh trưởng Thái Tùng Ba được vời về Bắc Kinh. Tướng họ Đường được cử thay thế chức tỉnh trưởng.

Tôi muốn về lại núi Kê Túc hưu dưỡng, nên giao chức đại biểu chi hội Phật giáo lại cho các vị khác rồi trở về núi. Vừa về đến, tôi liền lo việc trùng tu chùa Hưng Vân, chùa La Thuyên tại Hạ Dương. Đốc thúc lo liệu công trình xây cất sửa chữa xong, chư sơn trưởng lão tại Hạc Khánh thỉnh tôi đến chùa Long Hoa giảng kinh. Hòa thượng Chánh Tu thỉnh tôi qua chùa Kim Sơn tại Lệ Giang giảng kinh. Giảng xong, tôi ghé thăm động Thái Tử tại Tuyết Sơn, Duy Tân, Trung Điện, A Đôn Tử cùng các danh lam thắng cảnh khác. Lại đến vùng biên giới Trung-Tạng, tham quan ba mươi ngôi chùa Lạt Ma lớn nhỏ.

Năm đó, khi đang giảng kinh tại núi Long Hoa thì bốn huyện trong phủ Đại Lý bị nạn động đất rất kinh hồn. Nhà cửa, phòng xá, thành quách đều bị sập, duy trừ bảo tháp của chùa là không bị chi hết. Lúc chấn động, đất nứt ra, lửa cháy lan tràn, người người tranh nhau mà chạy thoát mạng, nhưng hầu như mỗi tấc đất đều rạn nứt, nên họ bị té lọt xuống. Muốn trèo lên khỏi thì đất liền khép lại, cắt đứt thân mình, chỉ thấy đầu người nằm la liệt trên đất. Bãi tha ma này như địa ngục lửa sôi trong kinh Phật, thật rất thê thảm, không dám nhìn xem. Trong thành có khoảng một ngàn căn nhà, hầu hết đều bị nạn động đất, chỉ còn sót lại vài căn. Khi ấy, có một tiệm kim hoàn của hai gia đình: Một là họ Triệu, tên Vạn Xương Hiệu. Hai là họ Dương, tên là Thâm Nhiên Hiệu. Lửa cháy đến tiệm của họ lại dừng. Cửa tiệm chưa hề bị hư hoại vì nạn động đất. Trong mỗi gia đình, có trên mười người. Tất cả đều được bình an vô sự. Vài người trong vùng biết đến hai gia đình này. Trãi qua bao đời, họ đều ăn chay niệm Phật. Đấy là những người lành thiện, mẫu mực mới tránh được những thiên tai hoạn nạn như thế. Tôi thật rất vui mừng.

(Đại sự trong năm: Đại chiến Ấu Châu bùng nổ.)

Dân Quốc năm thứ 4, 76 tuổi. (1915/16)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tại huyện Đặng Châu, thân sĩ họ Đinh, là bậc học giả triều Thanh, có con gái tuổi khoảng mười tám, chưa lập gia đình. Ngày nọ, cô đột nhiên té xuống, bất tỉnh nhân sự. Toàn thể gia đình kinh hoàng sợ hãi, không biết phải làm gì. Lát sau, cô tỉnh dậy, nói giọng đàn ông, chỉ thẳng và mắng cha: “Này tên họ Đinh! Mi cậy thế, vu oan cho ta là tướng cướp. Mi phải chịu trách nhiệm về cái chết của ta. Ta là người Tây Xuyên, phủ Đại Lý, họ Đổng. Ngươi có nhớ ra không? Hôm nay, ta cáo bạch trước điện Diêm Vương, trả mối thù tám năm về trước!”

Nói xong, cô ta lấy dao rượt họ Đinh. Họ Đinh sợ hãi, chạy trốn nơi khác, không dám về nhà. Mỗi ngày, quỷ đến một lần. Khi đến, liền nhập vào thân cô con gái, khiến điệu bộ cô trở nên rất hung hăng. Mọi người trong nhà đều lo buồn, lại làm liên lụy đến cả hàng xóm. Khổ thật!

Bấy giờ, trên núi Kê Túc có hai vị tăng là Biểu Cầm và Tố Chân đến huyện Đặng Châu, đi ngang qua nhà họ Đinh. Lúc ấy, quần chúng bu quanh nhà rất đông vì quỷ lại nhập vào thân cô gái và đang hiện tướng trạng hung dữ. Hai vị tăng này nói với quỷ: “Ngươi chớ nên làm dạng mạo như thế, khiến dân địa phương không được an ổn!”

Quỷ đáp: “Các thầy là người tu hành chớ có lắm chuyện!”

Tăng nói: “Vâng, dĩ nhiên là không phải chuyện của chúng tôi, nhưng vì thầy chúng tôi thường dạy rằng oan gia nên xả bỏ, chẳng nên kết thêm. Càng kết thì càng thâm sâu. Lúc nào mới giải quyết cho xong được?”

Quỷ ngừng chốc lát rồi nói: “Thầy của chư vị là ai?”

Tăng đáp: “Thầy chúng tôi là lão hòa thượng Hư Vân, trụ trì chùa Chúc Thánh.”

Quỷ nói: “Tôi cũng có nghe đến danh Ngài, nhưng chưa từng gặp mặt. Ngài có thể truyền giới cho tôi được không?”

Tăng đáp: “Đại từ đại bi, cứu độ tất cả khổ não! Sao Thầy chúng tôi không truyền giới cho ngươi được?”

Tăng lại khuyên quỷ nên bảo họ Đinh xuất tiền ra làm lễ siêu độ.

Quỷ nói: “Hắn giết người hại mạng. Tôi không muốn dùng tiền của hắn!”

Tăng đáp: “Như vậy, nếu người địa phương gom góp tiền lại, cầu siêu cho ngươi, để họ được sống an ổn. Vậy được không?”

Quỷ nói: “Thù này nếu không báo, tôi hận mãi không nguôi. Oán ân tương báo, làm sao giải hết? Để tôi xuống hỏi lại Diêm Vương coi. Ngày mai, chư vị hãy đến đây đợi tôi!”

Quỷ xuất ra. Cô gái liền tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người bao vây xung quanh, mắc cở, bỏ chạy vào nhà. Hôm sau, quỷ đến sớm hơn hai vị tăng, nên trách móc rằng sao không giữ lời hứa đến đúng giờ. Tăng bảo rằng vì có công việc nên mới đến trể.

Quỷ nói: “Tôi đã hỏi qua Diêm Vương. Ngài trả lời rằng chùa Chúc Thánh là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, nên cho phép đi, nhưng chư vị phải đưa tôi đến đó.”

Hơn cả chục thân sĩ và dân chúng vùng địa phương cùng hai vị tăng đi đến chùa. Chiều đến, chúng tôi bàn việc giải quyết vấn đề. Hôm sau, chùa thiết đàn tụng kinh thuyết giới. Kể từ đó, gia đình họ Đinh được bình yên trở lại. Dân chúng, sĩ thứ huyện Đằng Châu thường cùng nhau đến chùa lễ bái.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Nhật Bổn ép bức Trung Quốc thừa nhận hai mươi mốt điều ước. Tháng chạp, Viên Thế Khải tuyên bố đế chế, đổi hiệu là Hồng Hiến nguyên niên.)

Dân Quốc năm thứ 5, 77 tuổi. (1916/17)

Từ lúc cư sĩ Cao Vạn Bang cúng dường tượng Ngọc Phật đến nay đã vài năm. Tôi trở lại Nam Dương để thỉnh tượng Phật về. Nghe có nhiều người dân thuộc sắc tộc khác Hán tộc tin tưởng Phật pháp, nên tôi đi qua tham quan các vùng đất của họ như Thường Đạt Miến, Oa Tán, Lạp Tán, rồi lại trở về Ngưỡng Quang lễ tháp Đại Kim, thăm Cao cư sĩ. Tại chùa Long Hoa, giảng kinh xong, tôi đón tàu đi Tân Gia Ba. Tàu đến cảng Tân Nhai, một viên cảnh sát người Anh nói: “Hiện nay tại Trung Quốc, đại Tổng Thống đang thiết lập đế chế, ra lịnh bắt giữ tất cả những tên nổi loạn. Mọi người Hoa lục địa, qua đến đây, phải được kiểm soát chặt chẽ, rồi sau mới cho lên bờ.”

Vài trăm người được đưa đến ty cảnh sát tra hỏi. Sau đó, từ từ họ đều được thả ra hết, nhưng trù nhóm người chúng tôi, gồm có sáu vị tăng. Họ bảo rằng chúng tôi thuộc đảng cách mạng, nên giữ lại. Họ trói chúng tôi lại, rồi đánh đập, đem phơi nắng, không cho ăn uống, không cho đi đại tiểu tiện, không cho cử động, nếu nhúc nhích liền bị đánh; cứ như thế từ sáu giờ sáng cho đến tám giờ tối. May thay, có đệ tử quy y của tôi là Hồng Thịnh Dương và ông quản lý họ Đổng, nghe biết tình cảnh của chúng tôi, nên đến ty cảnh sát bảo lảnh, nhưng phải đóng tiền thế chân là năm ngàn đồng cho mỗi người, rồi mới được thả ra. Sau đó, chúng tôi được đưa về thương hiệu Thịnh Dương, lưu trú qua năm mới. Hai vị cư sĩ này cũng giúp tôi việc mang tượng Ngọc Phật về nước.

(Đại sự trong năm: Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên nhậm chức Tổng Thống.)

Dân Quốc năm thứ 6, 78 tuổi. (1917/18)

Mùa xuân, từ đình Quán Ấm, tôi vận chuyển tượng Phật về nước, mướn tám người phụ giúp mang về núi Kê Túc. Tiền mướn họ khoảng cả ngàn đồng. Đoàn chúng tôi phải đi qua các vùng đồi núi hẻo lánh, cheo leo chập chùng, chưa từng có dấu chân người. Đi như thế cả vài mươi ngày. Ngày nọ, lúc đến núi Dã Nhân, những người khuân vác nghi rằng trong tượng Ngọc Phật có vàng bạc châu báu hay ngân phiếu, nên họ đặt tượng Phật xuống, nói rằng không còn sức để khiêng tượng Phật nữa, lại đòi trả tiền thêm tiền công. Tôi cố an ủi, nhưng họ càng làm ồn ào, hung tợn thêm. Biết không còn cách nào để làm cho họ dịu xuống, nhìn bên đường thấy tảng đá to, nặng khoảng vài trăm cân, tôi bảo bọn họ: “Tảng đá này cùng tượng Phật, vật nào nặng hơn?”

Họ đáp: “Chắc chắn là tảng đá nặng hơn tượng Phật hai ba lần.”

Tôi liền dùng hai tay nâng tảng đá lên cả thước. Bọn họ trố mắt thè lưỡi và nói: “Lão Hòa Thượng này thật là Phật sống!”

Từ đó, họ không còn dám nói năng chi hết, khiêng tượng Ngọc Phật đi thẳng về núi. Đến núi, tôi cũng thưởng thêm tiền cho họ. Tôi tự biết sức mình không thể nâng nỗi tảng đá đó, mà thật ra chỉ nhờ thần lực của Long Thần hộ pháp thôi.

Sau đó tôi đi Đằng Xung, Bảo Sơn giảng kinh tại các chùa viện.

Dân Quốc năm thứ 7, 79 tuổi. (1918/19)

Đề đốc Đường Kế Nghiêu phái tùy viên đem thơ đến, ra lịnh cho quan tri huyện Tân Châu đồng lên núi, thỉnh mời tôi ba lần. Bất đắc dĩ lắm, tôi mới đáp lời mời của ông ta để đi Côn Minh. Khi ấy, đường lộ rất nguy hiểm, nên quan huyện phái quân lính đến hộ tống. Tôi từ chối, chỉ đem theo đệ tử là Tu Viên. Một bộ tăng y cùng một bình bát, chúng tôi khởi hành. Khi đến Sở Hùng, gặp loạn quân, họ khám xét kỹ càng. Vì tìm thấy lá thơ của đề đốc họ Đường, nên họ liền đánh tôi. Tôi nói: “Chư vị đánh tôi làm gì. Xin cho tôi gặp tướng thủ lãnh của chư vị.”

Họ liền đưa tôi đến gặp hai thủ lãnh, Dương Thiên Phúc và Ngô Học Hiển. Họ hỏi: “Thầy là ai?”

Tôi đáp: “Tôi là hòa thượng núi Kê Túc.”

Hỏi: “Thầy tên chi?”

Đáp: “Tôi tên Hư Vân.”

Hỏi: “Thầy lên tỉnh lỵ có việc gì?”

Đáp: “Tôi lên tỉnh lỵ để làm Phật sự.”

Hỏi: “Làm Phật sự cho ai?”

Đáp: “Tôi vì nhân dân mà làm Phật sự. Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho dân chúng được tiêu trừ thiên tai hoạn nạn.”

Hỏi: “Họ Đường là thằng giặc, kẻ tồi bại. Tại sao Thầy lại giúp hắn. Thầy qua lại với hắn. Vậy Thầy cũng là người tồi bại!”

Đáp: “Ngài nói họ Đường là người xấu, thật rất khó xác định!”

Hỏi: “Tại sao khó xác định?”

Đáp: “Nói về việc tốt thì mọi người đều tốt cả. Nói về việc xấu thì mọi người đều xấu hết.”

Hỏi: “Thầy nói cái gì?”

Đáp: “Giả sử Ngài cùng họ Đường vì dân vì nước mà tạo phước, cho đến các thuộc hạ của chư vị cũng thế, thì ai ai cũng là người tốt hết. Nói về việc xấu, Ngài bảo họ Đường là kẻ tồi bại, mà ông ta cũng bảo rằng các Ngài là kẻ tồi bại. Chư vị đều có thành kiến, như nước với lửa, cùng đem quân giết hại lẫn nhau, lại sát hại nhân dân. Như vậy có phải chư vị đều là người xấu hết phải không? Nhân dân theo bên tả là giặc, mà theo bên hữu là cướp. Vậy đáng thương họ lắm không?”

Cả hai thủ lãnh nghe tôi phân trần đều cười và bảo: “Thầy nói thế không sai. Vậy phải làm thế nào mới đúng?”

Tôi đáp: “Theo ý tôi thì chư vị đừng nên đánh nhau nữa. Xin hãy hòa giải.”

Họ Ngô nói: “Thầy bảo chúng tôi phải đầu hàng ư?”

Tôi đáp: “Không phải như thế! Tôi nói rằng chư vị hãy nên hòa giải kia. Chư vị đều là những người hiền sĩ của đất nước. Nếu muốn đem hòa bình an lạc lại cho quốc gia, việc quan trọng trước nhất là chư vị hãy dẹp bỏ thành kiến, để cùng nhau an dân cứu nước. Đó có phải là việc tốt lắm không?”

Họ Ngô đáp: “Vậy phải bắt đầu như thế nào?”

Tôi đáp: “Bắt đầu với họ Đường.”

Họ Ngô nói: “Không thể thương lượng với hắn được. Hắn giết hại và giam cầm quân chúng tôi rất nhiều. Phải nên báo thù. Nói việc ra hàng, thì làm sao chấp nhận được.”

Tôi đáp: “Tiên sinh chớ hiểu lầm! Tôi nói Ngài nên thương thuyết với họ Đường, vì hiện giờ ông ta là quan của chính quyền trung ương, có quyền uy trong tay. Tương lai Ngài cũng có thể làm quan vậy. Việc ông ta giết nhiều người của Ngài, để khi đến Côn Minh, tôi sẽ làm Phật sự, cầu siêu cho các âm hồn chiến sĩ trận vong. Đối với những người đang bị nhốt, tôi sẽ xin ông ta thả ra hết. Chư vị nếu không lắng nghe lời tôi giải bày, cứ gây chiến tranh với nhau, thì thắng bại khó bàn. Tuy có quân, nhưng so với họ Đường thì chư vị không thể sánh bằng. Ông ta có quân lính, tiền tài lương thực, và được chính quyền trung ương hỗ trợ. Uy thế của ông ta mạnh hơn chư vị rất nhiều. Hôm nay, không phải tôi đến đây khuyên chư vị ra hàng, nhưng vì thuận tiện cùng có chút duyên lành, nên mới tỏ rỏ sự tình. Lại nữa, tôi chỉ ước mong đất nước được thanh bình, nhân dân an lạc, để người ngoại quốc không khinh dân tộc mình.”

Họ Ngô và họ Dương đều cảm động, lại ủy thác tôi làm đại biểu. Tôi nói:

“Không dám đâu! Xin chư vị hãy viết một tờ hòa ước. Nếu có cơ hội, tôi sẽ đưa thơ này và thương thuyết với họ Đường.”

Hai họ Ngô và Dương nghe xong, liền cùng nhau luận bàn cả ba ngày, rồi viết ra sáu điều hòa ước:

1/ Trước khi hòa giải, hãy thả hết tất cả người của chúng tôi.

2/ Không thể giải tán quân binh của chúng tôi.

3/ Không được hủy bỏ chức vụ binh quyền của chúng tôi.

4/ Quân đội của chúng tôi phải do chúng tôi chỉ huy, tiếp quản.

5/ Không được truy xét tội lỗi chiến tranh giữa hai quân đội lúc trước.

6/ Sau khi hòa giải, phải đối xử bình đẳng với quân của hai bên.

Tôi nói: “Những hòa ước này, chắc sẽ không thành vấn đề gì đâu! Đợi tôi thương thuyết với họ Đường, rồi sau đó sẽ đem công văn và phái tùy viên đến đón tiếp.”

Họ Ngô nói: “Thật làm phiền Ngài. Sự việc nếu thành, chúng tôi cảm ơn Ngài rất nhiều.”

Tôi đáp: “Xin đừng cảm ơn! Tôi làm việc này, chẳng qua chỉ do thuận tiện mà thôi.”

Họ Ngô và Dương ưu đãi tôi rất trịnh trọng. Tối đến chúng tôi lại đàm đạo những chuyện khác, rất vui vẻ. Họ muốn giữ tôi lại, nhưng vì chuyện gấp, nên hôm sau tôi liền từ giã. Ắn sáng xong, họ cúng dường tiền lộ phí, thức ăn, xe ngựa, đồ vật, lại phái người đi theo hộ tống. Tôi khước từ hết cả, chỉ nhận đồ ăn để đi đường. Ra khỏi doanh trại khoảng nửa dặm, đột nhiên có một nhóm người chạy đến, quỳ ngay trước mặt, cúi đầu xuống đất. Nhận ra họ chính là những quân sĩ đánh tôi hôm qua. Họ đồng thanh thưa: “Xin Bồ Tát tha lỗi cho chúng con.”

Tôi an ủi họ và bảo rằng việc ác chớ làm, hãy nên làm việc lành. Tất cả họ đều cảm động, rơi lệ, rồi đi khỏi.

Khi đến Côn Minh, họ Đường phái tùy viên đến đón tiếp, đưa tôi về đài Chúc Long, chùa Viên Thông. Tối đến, ông mời tôi vào dinh trại gặp mặt. Ông nói: “Đã bao năm không được gặp Ngài. Trong thời gian ấy, bà nội, cha mẹ, vợ, anh em, đã lần lượt qua đời. Tâm con không an. Cộng thêm, bọn cướp trong vùng địa phương luôn hoành hành, làm dân lành điêu đứng, tướng sĩ thương vong, cô hồn đói rét. Vì thế, con nghĩ đến ba việc: Thứ nhất là tổ chức lễ cầu nguyện chư Phật gia bị cho dân chúng được tiêu trừ tai nạn, và cầu siêu cho các vong hồn vất vưởng. Thứ hai là kiến lập một đại tùng lâm tại chùa Viên Thông để hoằng dương Phật pháp. Thứ ba là xây một trường đại học đạo đức thiện lành để giáo dục thanh niên. Việc thứ ba đã có người của con lo liệu, còn việc thứ nhất và thứ hai, ngoài Ngài ra thì không ai có thể đảm nhận nỗi.”

Tôi đáp: “Ngài phát hoằng đại nguyện, trên thế gian này thật khó có được, vì đây là sự phát tâm của Bồ Tát. Lão tăng đây trí huệ cạn cợt, không đủ sức để giúp Ngài hết tất cả. Việc kiến lập tùng lâm, trong nước có rất nhiều chư vị cao tăng hiền đức. Lại nữa, chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm vì chỉ có thể chứa được khoảng vài trăm người thôi. Xin Ngài hãy xem xét lại. Việc lập đàn tràng cầu nguyện, không đến nỗi lâu lắm, tôi có thể giúp Ngài được.”

Họ Đường nói: “Ngài bảo rằng chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm, thật rất đúng. Xin hãy gác lại việc này. Mai mốt sẽ bàn sau, còn việc lập đàn tràng thì như thế nào?”

Tôi đáp: “Tâm Phật là một thể, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Lập đàn tràng là vì nước vì dân, cùng làm lợi ích đến cõi u minh. Theo ngu kiến của lão tăng, trước khi làm phật sự, xin Ngài ba việc: Thứ nhất là khi lập đàn tràng, trong suốt ngày, cấm dân chúng trong huyện không được giết hại loài vật. Thứ hai là hãy nên thả tù nhân ra. Thứ ba là chẩn tế cứu giúp nạn nhân chiến tranh.”

Họ Đường đáp: “Việc thứ nhất và thứ ba có thể làm được, còn việc thứ hai thì do bộ hành pháp của chính quyền trung ương quyết định. Con không thể tự ý làm.”

Tôi nói: “Việc nước rất nhiều. Chính quyền trung ương khó mà lo hết. Vấn đề này, xin Ngài hãy bàn thảo với bộ hành pháp trong tỉnh thì có thể làm được. Nếu thế thì chư thiên mới ban phước lành đến cho nước nhà.”

Họ Đường gật đầu chấp thuận.

Tôi nói thêm: “Tôi vẫn còn một việc muốn thưa với Ngài (tôi liền kể lại việc gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương trên đường). Xin Ngài hãy thả những tù nhân đó ra, để cảm hóa họ trở về với mình.”

Nghe rõ sự tình, họ Đường rất vui mừng, liền bàn thảo việc thả tù nhân và hòa giải chiến tranh.

Gần cuối năm, cư sĩ Ấu Dương, Cảnh Vô, Lữ Thu Dật, từ Thượng Hải đến, quyên góp tịnh tài cho Phật học viện Chi Na, cùng trú tại chùa Viên Thông. Họ thỉnh mời tôi giảng luận Nhiếp Đại Thừa Khởi Tín. Sau đó, tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tháng chín, chiến tranh Châu Ấu chấm dứt. Từ Thế Xương nhậm chức Tổng Thống.)

Dân Quốc năm thứ 8, 80 tuổi. (1919/20)

Mùa xuân, tại Côn Minh tôi lập đàn tràng Thủy Lục Không nơi chùa Trung Liệt Từ. Khi pháp hội vừa khai mở thì chánh quyền ân xá tù tội, cấm nhân dân giết hại loài vật. Trong kỳ hội lễ, họ Đường phái tùy viên đến gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương để bàn việc hòa giải. Sau đó, họ Đường ủy nhiệm cho hai họ Ngô và Dương làm trại trưởng. Từ đó, dân vùng địa phương được sống an ổn. Hai vị họ Ngô và Dương, trung thành trước sau không đổi. Có điều lạ kỳ là khi pháp hội vừa khai mở thì tất cả ánh lửa đèn đuốc đột nhiên biến dạng như hoa sen, màu sắc thay đổi rất nhiều. Chư thiện nam tín nữ, tùy duyên đến xem. Ngày bốn mươi chín, khi pháp hội vừa xong, lúc làm lễ tiển chư Thánh chúng, thì trên trời hiện ra tràng phang bảo cái, bay lẫn trong mây. Nhân dân trong thành thấy rõ, nên quỳ xuống lễ bái. Xong lễ cầu nguyện, họ Đường thỉnh tôi đến nhà tụng kinh cho thân nhân đã mất. Chính ông cũng thấy những điềm lành khác, nên tín tâm càng tăng. Tất cả người trong gia phủ đều thọ giới quy y.

Tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tiên sinh Tôn Trung Sơn đổi tên đảng cách mạng Trung Hoa thành Trung Hoa Quốc Dân Đảng.)

Dân Quốc năm thứ 9, 81 tuổi. (1920/21)

Họ Đường vẫn thỉnh tôi làm lễ Thủy Lục Không. Lễ xong, tôi tiếp tục giảng kinh. Chùa Hoa Đình ở Tây Sơn, Côn Minh là một ngôi chùa cổ xưa trong nước. Phong cảnh nơi đây rất đẹp. Trong chùa, không có vị thầy nào trụ trì cả. Bấy giờ, có các thầy trong vùng lại muốn bán chùa cho người Tây Phương để làm câu lạc bộ. Chánh quyền địa phương đã đồng ý phê chuẩn. Tôi rất lấy làm tiếc, nên nói với họ Đường rằng hãy nên cố bảo tồn ngôi chùa cổ kính, thuộc hàng danh lam thắng cảnh trong nước. Họ Đường chấp thuận lời yêu cầu của tôi. Ông bí mật bàn với các vị niên trưởng trong vùng như Vương Cửu Linh, Trương Chuyết Tiên. Họ làm một buổi cơm chay, mời tôi đến dự. Trong lúc dùng cơm, họ dâng lên một thiệp hồng, thỉnh mời tôi làm trụ trì chùa Hoa Đình để trùng hưng lại ngôi chùa này. Họ xưng thỉnh như thế ba lần. Tôi liền chấp nhận.

Cuối mùa đông, họ Đường được thuyên chuyển qua nhậm chức tại Hồng Kông.

(Lời thêm của người biên: Lão hòa thượng Hư Vân đầu tiên trụ trì chùa Ngưỡng Dương, Tây Trúc, tức Hộ Quốc, Chúc Thánh thiền tự. Kế đến, Ngài kiến lập chùa Nhân Thắng ở Côn Minh, chùa Lâu Thiền, chùa Tùng-ẩn ở tỉnh Viên Vân, núi Bích Kê.

Phụ chú: Mùa thu năm đó, tướng Cố Phẩm Trân cùng một số tướng lãnh khác tính đoạt quyền của Đường Kế Nghiêu. Họ Đường có hơn hai mươi sư đoàn, định giao chiến. Ông ta vì cung kính tin tưởng nơi Vân Công nên nửa đêm, thay đồ đổi dạng, đến chùa gặp và cung thỉnh Ngài bàn kế hoạch. Vân Công nói: “Ngài thâu phục được lòng dân tỉnh Vân Nam mà chưa được lòng hết tất cả tướng sĩ. Nếu dùng vũ lực thì khó phân thắng bại giữa hai quân đội, mà người ngoại quốc có thể lợi dụng cơ hội này để xâm chiếm Vân Nam. Tốt nhất là Ngài hãy nên tạm bỏ hư danh để bảo tồn lực lượng, chờ duyên lành ngày sau.”

Họ Đường chấp nhận, nên sau đó giả bộ nhường chức cho Cố Phẩm Trân. Đêm ba mươi tháng chạp, ông bỏ Vân Nam đi qua Việt Nam rồi quay về Hồng Kông. Việc này, khi lược thuật trong quyển biên niên, Vân Công không nói rõ chi tiết. Kẻ biên chép lại quyển biên niên, mười năm trước lúc theo hầu, Ngài đã từng kể chuyện này.)

Năm đó, cư sĩ Trương Chuyết Tiên đem hai con ngỗng đến chùa Vân Lâu để phóng sanh, và thỉnh tôi thuyết giới cho chúng. Trong lúc thuyết giới, hai con ngỗng cúi đầu xuống, im lặng, giống như đang thọ nhận giới pháp. Thuyết giới xong, chúng ngẫng đầu lên, tỏ vẻ vui mừng. Từ đó, chúng thường theo đại chúng đồng lên chánh điện. Đại chúng niệm Phật; chúng lắng nghe. Đại chúng đi nhiễu Phật; chúng cũng đi theo sau nhiễu Phật. Cứ như thế mà không đổi. Người người đều mến thích chúng. Qua ba năm, ngày nọ, con ngỗng cái lên trước chánh điện, vỗ cánh ba lần, ngưỡng đầu lên ngắm nhìn tượng Phật rồi chết, nhưng dạng trạng vây lông vẫn không biến đổi. Sau đó đại chúng đặt nó vào thùng gỗ rồi thiêu. Con ngỗng đực còn lại, kêu rống không ngừng, dạng như không muốn rời xa bạn nó. Nó không ăn uống cả vài ngày, rồi cũng lên chánh điện, đứng ngắm nhìn tượng Phật, trương hai đôi cánh ra, vỗ một lần rồi chết. Đại chúng cũng đặt xác nó vào một thùng gỗ nhỏ để thiêu, cùng đặt tro của hai con ngỗng này chung một chỗ.

Dân Quốc năm thứ 10, 82 tuổi. (1921/22)

Mùa xuân, Cố Phẩm Trân lên làm đô đốc tỉnh Vân Nam. Tháng hai, trời đổ mưa to không ngớt. Trong thành, phải dùng thuyền mà đi. Mỗi ngày, trên lầu các cửa thành, quân lính dùng súng thần công để bắn tan đi những đám mây lớn, nhưng không hiệu quả. Đến cuối tháng bảy, trời lại hạn hán cả vài tháng. Đến mùa đông, nước sông cạn dần cho đến đáy. Nạn hạn hán như vầy, chưa từng xảy ra ở tỉnh Vân Nam. Trong mùa thu, bịnh bạch hầu lan tràn khắp tỉnh, khiến bịnh chết cả ngàn người. Khi ấy, tôi đang trú ngụ tại chùa Hoa Đình (sau đổi tên là Vân Lâu), cùng thượng nhân Câu Hành đồng trụ, gặp năm xấu này, mọi công việc Phật sự đều tạm đình chỉ. Sáng nọ, chúng tôi đồng đi vào thành, đến trưa mới về. Trên đường, lúc tạm dừng chân nghỉ ngơi bên dưới một tàng cây, chúng tôi phát hiện một gói đồ lớn. Mở ra xem thì thấy các đồ vật nữ trang quý báu như vòng xuyến, vàng ngọc, trâm vàng, chuỗi vàng, đồng hồ, tám ngàn đồng tiền tỉnh Vân Nam, hơn chục ngàn tiền nước Pháp. Xem xong, chúng tôi gói lại, ngồi chờ chủ nhân đến nhận. Trời đã chập tối, đường về chùa lại quá xa, nên chúng tôi mang gói đồ này trở về, định hôm sau sẽ trở lại, và đăng báo tìm chủ nhân.

Lúc băng qua sông, sắp đến chân núi, chúng tôi chợt thấy một cô gái vừa nhảy xuống sông, rồi từ từ chìm xuống. Tôi liền nhảy xuống cứu cô ta lên bờ, biết được rằng cô ta muốn tự tử. Chúng tôi dẫn cô ta về chùa, cho y phục cùng thức ăn, nhưng không chịu ăn, chỉ lấy y phục thôi. Chúng tôi ân cần an ủi khuyên nhủ; hồi lâu, cô ta nói rằng cô vốn họ Chu, người Trường Sa, sanh trưởng ở Vân Nam. Mười tám năm về trước, cha bán thuốc tại đường Phúc Xuân trong thành, chỉ sanh được cô. Lớn lên, được viên tướng vùng địa phương họ Tôn, đến nhà cầu hôn với cô, tự nói là chưa vợ, nên cha mẹ cô đều tin tưởng. Hôn lễ xong, đi về nhà chồng thì mới biết được là ông ta đã có vợ. Biết mình bị lừa, thì đã quá trể. Vợ ông tánh khí hung dữ, thường đánh đập cô rất tàn nhẫn. Cha chồng cố hòa giải nhưng vẫn không được. Cha mẹ cô lại sợ thế lực của tướng họ Tôn nên không làm gì được. Cho đến hôm nay, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong. Vì vậy, cô bỏ nhà trốn đi, đem theo một ít tư trang tài vật, muốn đến núi Kê Túc cầu xuất gia với tôi. Do không biết đường đến núi, nên cô ta đi lạc cả hai ngày. Lại bị mất gói đồ, nên cô ta chỉ còn chọn con đường chết. Do đó mới nhảy xuống sông tự tử. Tôi bảo cô ta miêu tả lại những vật dụng đã bị mất. Cô ta kể rõ những vật dụng bị mất, thật đúng như những vật mà chúng tôi đã nhặt được bên tàng cây lớn. Tôi trả lại gói đồ và bảo các thầy trong chùa thuyết đại ý quy y Tam Bảo cho cô nghe. Hôm kế, báo tin cho họ Chu biết. Hai nhà họ Tôn và họ Chu cùng với gia quyến cha mẹ thân thích, cả thảy hơn ba mươi người, đồng đến chùa hòa giải.

Khi ấy, tôi thuyết pháp cho họ nghe. Sau đó, họ Tôn, chồng lẫn vợ đồng quỳ trước chánh điện, lập thệ sám hối những tội lỗi trước, rồi ôm nhau mà khóc. Người đến thăm chùa rất cảm động. Cả hai họ đều ở lại chùa ba ngày. Trai gái, già trẻ, đều phát tâm quy y Tam Bảo, thọ giới, rồi trở về nhà.

Dân Quốc năm thứ 11, 83 tuổi. (1922/23)

Năm đó, tôi sửa sang lại chùa Hoa Đình (tức chùa Vân Lâu). Phía tây hồ Côn Minh có núi Bích Kê, là nơi vị thái tử thứ hai của vua A Dục ở Ần Độ có ghé qua. Ông thấy một đàn chim phượng hoàng bay ngang qua, nên quyết định ở lại tu hành cần mẫn, rồi đạt đạo, lấy hiệu là Thần Bích Kê, nay cũng chính là tên núi. Các đỉnh núi giống như mái che, sau này được gọi là chùa Hoa Đình. Đời nhà Nguyên có thiền sư Huyền Phong đắc pháp dưới tòa của quốc sư Trung Phong tại Tây Thiên Mục, đến đây khai sáng núi, lấy hiệu là Viên Giác. Người sau lại đổi tên núi là Hoa Đình.

Năm trước, khi ngôi chùa cổ này sắp bán cho người ngoại quốc, tôi liền nói với họ Đường chuộc lại. Sau đó ông thỉnh tôi làm trụ trì, thúc đẩy việc sửa chữa. Dưới lòng đất chùa, đào lên, nhặt được một viên đá cẩm thạch, có khắc chữ “Vân Lâu”, niên đại Nhân Diệt. Đá cẩm thạch được đặt trên tháp Hải Hội của chúng xuất gia. Thái sử họ Trần cúng dường vườn hoa của trường nông lâm nghiệp, mà khi trước, thuộc về khu đất của chùa Thắng Nhân.

Tôi xây hạ viện chùa Vân Lâu nơi đó, lại kiến lập điện đường phòng ốc, cùng sửa chữa chùa Thái Hoa, chùa Tùng-ẩn. Dưới chân núi, xây chùa Chiêu Đề, đổi tên thôn thành thôn Chiên Đề. Sau lưng núi, có một khu rừng rậm, nơi chúng tôi thường đến đốn củi để mang về chùa. Hôm nọ, chợt có người nhặt được một gói đồ lớn, mà trong đó có vàng bạc, cùng hơn hai trăm ngàn đồng. Tôi định đem giao cho chánh phủ để dùng vào việc cứu tế dân nghèo, nhưng đại chúng ngăn cản, bảo là hiện tại chùa đang thiếu thốn, nên giữ lại cho chùa. Tôi bảo: “Theo luật Phật chế thì người xuất gia không được giữ đồ vật rơi rớt. Nay nhặt được mà muốn giữ, tức là phạm giới. Đồ này là vật phi nghĩa, không thể giữ lại cho chùa được. Chư vị có thể đem tiền của mình mà cúng dường Tam Bảo, để trồng vào ruộng phước. Người xuất gia có thể đi hóa duyên nếu cần. Tôi không dám lấy vật nhặt được mà đem vào làm của cho chùa.”

Đại chúng nghe thế, liền đồng ý đem gói đồ này cho chính phủ để cứu giúp dân nghèo.

Hai năm liền, tỉnh Vân Nam liên tiếp bị nạn hạn hán, dân chúng đói rách bịnh khổ. Bịnh bạch hầu lan tràn, khiến vô số người chết. Từ tướng sĩ đến dân chúng, không ai không nghĩ đến ân đức họ Đường, nên cùng nhau bàn luận, thỉnh mời họ Đường trở về Vân Nam nhậm chức đô đốc.

Sau khi trở về nhậm chức, họ Đường đi thẳng đến chùa, thỉnh tôi lập đàn tràng cầu mưa. Tôi thiết lập đàn tràng cầu nguyện. Trong ba ngày, trời đổ mưa to, (lúc ấy là tháng năm, không phải mùa mưa), nhưng bịnh bạch hầu vẫn lan tràn. Họ Đường nói: “Con nghe rằng nếu trời đổ tuyết thì bịnh bạch hầu này sẽ hết, nhưng nay mùa xuân sắp hết, làm thế nào để có tuyết rơi?”

Tôi nói: “Tôi sẽ thiết lập đàn tràng nữa. Ngài hãy thành tâm cầu nguyện!”

Họ Đường ăn chay giữ giới. Tôi tụng kinh lễ sám. Qua hôm sau, tuyết rơi dầy cả thước. Bịnh bạch hầu đột nhiên chấm dứt. Ai ai cũng đều tán thán Phật pháp thật không thể nghĩ bàn.

Dân Quốc năm thứ 12, 84 tuổi. (1923/24)

Trong năm, lúc sửa chữa tháp Hải Hội cho bảy chúng xuất gia, vừa đào nền móng sâu xuống vài tấc thì phát hiện ra một cái hòm, trên có ghi: “Phu nhân họ Lý, người Phiên Dương, đời Gia Tỉnh thứ tư (1525-26).” Mở nắp hòm ra, thấy gương mặt bà hồng hào như còn sống. Lúc hỏa táng, ngọn lửa biến thành hình hoa sen. Sau đó, tro của bà được đặt vào tháp Uu Bà Di. Tất cả ngôi mộ bên phải của chùa đều được hỏa táng. Tro được đặt hết vào trong tháp Hải Hội. Giữa những ngôi mộ, có một bia tháp của tỳ kheo Đạo Minh, niên hiệu Đạo Quang đời Thanh (1821-50). Tỳ kheo Đạo Minh lúc nhỏ hai chân bị tàn tật, cha mẹ gởi vào chùa tu. Sau khi thọ giới cụ túc, thầy phát tâm lạy Đại Bi Sám Pháp, trì niệm thánh hiệu Bồ Tát Quán Ấm. Đêm nọ, mơ thấy Bồ Tát Quán Ấm hiện ra bảo hãy đi tắm. Tắm xong, không thấy Bồ Tát đâu hết, mà hai chân cảm thấy rất khỏe khoắn. Hôm sau, khi bước xuống giường, hai chân đi được như bình thường. Từ đó, trí huệ Thầy ngày một tăng trưởng, nên cả đời luôn trì thánh hiệu Bồ Tát Quán Ấm. Trên nắp hòm, kiến cắn nhặm thành một tháp nhỏ hình tám cạnh, có bảy từng. Như thế, chứng minh sự tu trì cẩn mật của Thầy.

Dân Quốc năm thứ 13, 85 tuổi. (1924/25)

Năm ấy, tôi sửa sang lại tất cả tháp chư tổ sư toàn núi cùng tháp bảy vị Phật. Tổng cộng là mười sáu ngôi tháp. Lại sơn phết các tôn tượng Phật, Bồ Tát, năm trăm vị A La Hán trong tất cả chùa chiền. Nơi đại hùng bảo điện chùa Thắnh Nhân, đúc ba tượng Phật bằng đồng, và sửa lại chánh điện Tây Phương, cùng vẽ ba ngôi thánh tượng v.v…

Mùa xuân, kỳ truyền giới chấm dứt. Thiền sư Cụ Hành tự thiêu mà vãng sanh. Tôi có ghi lại sự việc như sau:

“Ký thuật về hạnh nghiệp của thiền sư Cụ Hành:

Thầy tên Nhật Biện, tự Cụ Hành, người tỉnh Hội Lý. Lúc nhỏ, cha mẹ mất sớm. Có người họ Tăng thương tình đem về nuôi nấng. Lớn lên, lại gả con gái cho. Sau đó, sanh ra hai đứa con. Gia đình luôn nghèo cùng túng thiếu. Tám người trong gia đình thường đến chùa làm công quả. Năm Tuyên Thống nguyên niên, lúc tôi vận chuyển Đại Tạng kinh về núi, liền truyền giới. Khi ấy, Thầy được hai mươi tuổi, hướng dẫn toàn gia đình đến chùa cầu xin xuất gia. Mặt Thầy xấu, lại không biết chữ, nhưng ban ngày khổ hạnh trồng rau quả, tối đến lễ lạy sám hối, niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Ấm, tập tu thiền, tự học tụng kinh, không nhờ người chỉ dạy, chỉ tự lực tinh tấn. Năm Dân Quốc thứ tư, Thầy xin ra ngoài tham học.

Đến năm Dân Quốc thứ chín, lúc tôi trụ trì chùa Vân Lâu ở Côn Minh, Thầy trở lại nhận chức trồng rau sau chùa. Thầy thường lên chánh điện tụng kinh, may vá y áo cùng đệm giường gối cho tăng chúng, không từ gian lao khổ nhọc. Ngày ngày trồng rau. Nếu có dư thừa rau cải thì đem cho người khác để gieo duyên, không giữ thực phẩm riêng cho mình. Thầy rất ít nói chuyện vãn. Khi tôi trú tại hạ viện chùa Thắng Nhân, nhận thấy mật hạnh của Thầy, thật khó ai bì kịp.

Kỳ truyền giới trong năm, Thầy cầu xin thọ giới tỳ kheo, rồi trở lại hạ viện tu hành. Đến ngày hai mươi chín tháng ba, dùng cơm trưa xong, Thầy qua chùa Thắng Nhân, ra sân sau chánh điện, tự lấy rơm rạ lót chung quanh, đắp y ca sa, ngồi xếp bằng trên đó, tay trái cầm khánh dẫn lễ, tay phải cầm dùi gõ mõ, mặt hướng về phía tây niệm Phật, rồi tự đốt rơm. Vài chục người trong chùa, không biết Thầy đi đâu, liền chạy ra ngoài, thấy lửa cháy rần rần. Họ đến gần, thấy Thầy đang ngồi bất động trong đóm lửa, mà y ca sa vẫn y như cũ, chỉ có mõ là bị cháy. Người trong chùa chạy đến báo tin cho tôi hay. Vì đang bận chuẩn bị cho kỳ truyền giới Bồ Tát vào mồng tám tháng tới, nên không thể xuống núi được, liền viết thơ mời Vương Trúc Thôn, trưởng ban tài chánh tỉnh lỵ, và Trương Chuyết Tiên, trưởng cục thủy lợi, thay mặt tôi làm lễ an táng cho Thầy. Họ Vương và họ Trương thấy việc kỳ lạ này, liền thuật lại với đề đốc họ Đường. Họ Đường dẫn toàn gia quyến đến xem. Họ thấy thân Thầy ngồi nghiễm nhiên bất động, tay vẫn còn cầm khánh. Khi vừa lấy chiếc khánh ra khỏi tay thì toàn thân Thầy bỗng tan rụi thành tro bụi. Tất cả đại chúng đều sanh thâm thâm tín. Họ Đường đề nghị rằng lễ an táng thầy Cụ Hành phải do chánh phủ đảm trách trong ba ngày. Người đến chiêm lễ cả hàng chục ngàn người. Họ Đường đem chiếc khánh đó cùng một bản văn sơ lược tiểu sử thầy Cụ Hành, giao cho thư viện tỉnh bảo quản.

(Đại sụ trong năm: Tháng giêng, Quốc Dân Đảng tuyên bố là đảng trị quốc. Tháng năm, khai mở trường quân giáo tại Hoàng Bộ. Tháng mười, chiến tranh giữa hai tỉnh Giang-Triết. Tháng mười một, họ Tào từ chức, họ Ấn lên chấp chánh chính phủ lâm thời. Tiên sinh Tôn Trung Sơn trở về Bắc Kinh.)

Dân Quốc năm thứ 14, 86 tuổi. (1925/26)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi ở lại chùa giảng kinh. Giảng xong, nơi thiền đường, khai mở một tuần thiền thất. Vùng núi của chùa, rất rộng lớn, cây cối um tùm, cần phải đốn bớt. Tôi nhờ người trong thôn đến cùng với đại chúng đốn củi, rồi phân làm nhiều loại, chia cho họ nửa phần. Họ đều vui vẻ.

Năm đó, tỉnh Vân Nam cải đổi, bỏ chức đề đốc tỉnh trưởng. Họ Đường từ chức, trở về ở ẩn, thường lui tới núi đàm đạo.

(Đại sự trong năm: Tiên sinh Tôn Trung Sơn qua đời tại Bắc Kinh. Tháng sáu, thành lập chánh phủ Dân Qụốc tại Quảng Châu.)

Dân Quốc năm thứ 15, 87 tuổi. (1926/27)

Nhiều biến cố xảy ra trong năm. Binh lính trú tại nhà dân. Dân chúng không ai sống được an ổn, lại không dám ra ngoài đồng gặt hái trong mùa lúa chín vì sợ binh lính. Tôi đến doanh trại lính, bàn thảo với các tướng chỉ huy. Sau đó, họ ra lịnh cho quân lính là không được cản trở khi có tăng chúng cùng nông dân ra đồng gặt lúa. Vì thế, vài ngàn nông dân cùng đến chùa ở. Lúc đầu, cùng đồng ăn cơm. Kế đến, phải ăn cháo. Cuối cùng, hết gạo, chỉ uống nước thôi. Dân chúng thấy tăng chúng đồng cam cộng khổ như thế, nên rất cảm động. Khi hiện tình quân binh được an ổn thì dân chúng đồng trở về nhà. Kể từ đó, dân chúng hết lòng giúp đỡ, bảo hộ chùa chiền, thật rất thành tâm.

Từ lúc tôi trụ trì chùa Vân Lâu, mỗi năm đều mở kỳ truyền giới, giảng kinh, khai thiền thất. Năm nay, trong kỳ truyền giới, trước chánh điện, có những cây mai khô đột nhiên nở trăm chùm hoa, dạng trạng như hoa sen. Tất cả cây cỏ trong vườn trước và sau chùa, tự nhiên nở hoa sen màu xanh. Trong mỗi hoa sen, có nhụy hoa giống như một tượng Phật đứng. Trương Chuyết Tiên có ghi khắc lại việc lạ lùng, hiếm có này trên đá, bằng một bài thơ.

(Đại sự trong năm: Tháng bảy, tiên sinh Tưởng Trung Chánh nhận chức tổng tư lệnh đảng Cách Mạng Dân Quốc, dẫn binh ra bắc chinh phạt. Tháng chín, chiếm Võ Xương. Tháng mười một, chiếm Cửu Giang. Tháng chạp, chánh phủ Dân Quốc dời về Vũ Hán.)

Dân Quốc năm thứ 16, 88 tuổi. (1927/28)

Trong năm, tôi vẫn truyền giới, giảng kinh, khai thiền thất. Đồng thời, tôi cho xây cất thêm các điện, mái ngói, phòng ốc, cùng đúc đại hồng chung U Minh.

(Đại sụ trong năm: Tháng tư, chính phủ Dân Quốc kiến lập thủ đô tại Nam Kinh. Tháng sáu, Trương Tác Lâm xưng Đại Nguyên Soái tại Bắc Kinh. Tháng chạp, chính phủ Dân Quốc cùng quân Cộng Sản tuyệt giao.)

Dân Quốc năm thứ 17, 89 tuổi. (1928/29)

Vì muốn đúc thêm tượng Phật, nên tôi cùng với cư sĩ Vương Cửu Linh đi Hồng Kông để quyên góp tịnh tài. Khi ấy, tướng Trần Chân Như phái tùy viên đến Hồng Kông đón chúng tôi về Quảng Châu. Chúng tôi trú tại viện Gi Dưỡng, rồi cùng đến chùa Năng Nhân, núi Bạch Vân. Họ Trần thỉnh tôi trụ trì chùa Nam Hoa, Tào Khê, nhưng tôi khước từ. Tôi đến Hạ Môn, qua Phước Châu, rồi trở về núi Cổ Sơn giảng kinh. Xong, tôi tới chùa A Dục Vương, lạy xá lợi Phật, rồi trở lại núi Phổ Đà. Hòa thượng Văn Chất đưa tôi đi Thượng Hải, trú tại am Hương Sơn, chùa Long Quang. Cuối thu, hòa thượng Đạt Công tại Cổ Sơn viên tịch. Đại chúng cử người đến Thượng Hải gặp tôi. Vì gần cuối năm, nên tôi ở lại Thượng Hải qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Trương Tác Lâm trở về Phụng Sơn, nhưng trên đường đi, bị phục kích chết. Tháng chạp, ba tỉnh miền đông khởi cờ hiệu. Chính phủ Dân Quốc thống nhất Trung Quốc.)

Dân Quốc năm thứ 18, 90 tuổi. (1929/30)

Tháng giêng, tôi từ Thượng Hải trở về Cổ Sơn. Đô đốc hải quân Dương Huyền Kinh, chủ tịch và cựu chủ tịch tỉnh Phước Kiến đồng dẫn quan dân sĩ thứ đến thỉnh mời tôi ở lại trụ trì chùa Cổ Sơn. Nghĩ lại, đây là nơi tôi xuống tóc xuất gia, thừa thọ ân Thầy Tổ, khó mà từ chối, nên tôi phải chấp nhận chức trụ trì.

Dân Quốc năm thứ 19, 91 tuổi. (1930/31)

Qua một năm ở tại Cổ Sơn, những việc khó khăn rắc rối từ từ được giải quyết. Mùa xuân, trong kỳ truyền giới, tôi thỉnh hòa thượng Văn Chất làm Yết Ma Giới Sư. Tháng giêng, tôi giảng kinh Phạm Võng. Trong vườn Phương Trượng, có hai cây phượng vĩ lớn. Theo lời kể của các vị cổ đức thì một cây do chính tay thái tử Mân Vương trồng, còn một cây thì do tổ sư Thánh Triết trồng, vào đời Đường, đã hơn một ngàn năm. Hai cây phượng vĩ này mọc rất chậm. Mỗi năm chỉ sanh ra một hoặc hai lá thôi. Cả hai cây cao khoảng mười thước, chưa từng nở hoa. Tương truyền, một ngàn năm mới nở hoa một lần. Trong kỳ truyền giới, hai cây phượng vĩ này đột nhiên nở hoa rộ khắp. Dân chúng xa gần đến xem, lưu luyến đạo tình. Hòa thượng Văn Chất có viết một bài kệ ngắn về việc kỳ lạ này. Tôi cũng có đề một bài kệ như sau:

“Ưu đàm bát la phi phàm phẩm, Tùy Phật thị hiện kim hoa,
Thế gian thải phượng xưng dương thụy,
Hiện đáo kiết tường hỷ khả gia,
Huyền sơn trượng thất lưỡng thiết thọ,
Nhân ngôn thử hủy hướng vô ba,
Định thị chủ lâm thần ủng hộ,
Cố tương nhân thọ phóng lưu hà.

Dịch:

Hoa Ưu Đàm Bát, vật phi phàm,
Y theo Phật thị hiện hoa vàng,
Chiếu soi điềm lành khắp thế gian,
Hiện việc tốt lành vui vẻ thay,
Hai cây phượng nơi thất núi huyền,
Người bảo cây chưa từng nỏ hoa,
Chắc là do thần cây ủng hộ,
Cố phóng ánh quang vì nhân thọ.”

Dân Quốc năm thứ 20, 92 tuổi. (1931/32)

Tôi vẫn ở Cổ Sơn tu sửa chùa viện, truyền giới giảng kinh, lập Phật học viện giới luật, xây am Bình Sở, am Vân Ngọa và các tự viện.

Dân Quốc năm thứ 21, 93 tuổi. (1932/33)

Mùa xuân năm ấy, trong kỳ truyền giới tại Cổ Sơn, đột nhiên có một ông lão, tóc trắng như tuyết, dung mạo thanh cao, kỳ dị, đi thẳng vào thất phương trượng, quỳ xuống cầu giới. Tôi hỏi ông tên gì. Ông đáp rằng họ Dương, người Mân Nam, Đài Kiều. Có một vị mới vừa thọ giới, tên Diệu Tông, cũng là người Đài Kiều, nói rằng chưa từng gặp qua ông lão đó. Sau khi truyền giới Bồ Tát, lúc cấp giới điệp xong, thì không thấy tông tích ông lão đâu cả. Lúc Diệu Tông trở về Đài Kiều, đến am Long Vương, thấy một bức tượng ngồi nghiễm nhiên, giống như ông lão, lại thấy giới điệp trong tay của tượng thần. Nam Đài chấn động, truyền nhau rằng Long Vương cầu thọ giới. Cũng trong kỳ truyền giới đó, có lão cư sĩ người Quảng Đông, là học giả triều Thanh, tên Trương Ngọc Đào, sáu mươi sáu tuổi, đến núi cầu giới. Tôi mời ông quản lý trông coi kinh tạng ở Cổ Sơn. Kỳ truyền giới chấm dứt, tôi thỉnh lão pháp sư Từ Chu tại pháp đường giảng giới Căn Bản của Bốn Phần Luật, cùng thỉnh hai vị pháp sư Tâm Đạo, Ần Thuận làm giáo thọ.

(Đại sụ trong năm: Tháng giêng, quân Nhật chiếm Cẩm Châu, tấn công Ầp Bắc nơi Thượng Hải. Quốc dân kháng chiến. Tháng ba, Đoàn Nghị tại Trường Xuân tức nước Mãn Châu, chính thức lên cầm quyền.)

Dân Quốc năm thứ 22, 94 tuổi. (1933/34)

Trong kỳ truyền giới, vào mùa xuân, tôi thỉnh lão pháp sư Ứng Từ giảng kinh Phạm Võng. Tháng giêng, quân Nhật chiếm cửa ải Sơn Hải, làm nhân tâm lo sọ, kinh hãi. Đạo quân thứ mười chín tại Phước Kiến đặt trong tình trạng báo động. Các chùa miếu tự viện trong toàn tỉnh, đình chỉ việc cho khách tăng tạm trú tại chùa, chỉ có Cổ Sơn là nơi vẫn còn tiếp đãi khách tăng. Khoảng năm sáu trăm tăng chúng cư ngụ tại núi. Việc phân phát lương thực thật khó khăn, nhưng mỗi người vẫn được một phần cháo vào buổi sáng và một phần cơm vào buổi trưa.

Tháng sáu, xây xong công viên phóng sanh. Trong các con ngỗng do cư sĩ Trịnh Cầm Tiều mang tới phóng sanh, có một con rất kỳ lạ. Nó nặng hơn mười sáu ký. Khi nghe tiếng mõ khánh đánh, nó trương hai đôi cánh và ngưỡng cổ ra. Khi vào chánh điện, nó giương mắt nhìn tượng Phật suốt cả ngày. Một tháng sau, nơi chánh điện, trước tượng Phật, nó đứng thẳng mà chết, nhưng không ngã xuống đất. Trịnh cư sĩ rất kinh ngạc, liền thỉnh chư tăng đem nó đi thiêu đốt. Tháng bảy, khi thiêu thì xác nó không bốc ra mùi gì hết. Một ngôi mộ được đào để chứa tro cốt của các động vật.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, quân Nhật xâm nhập cửa ải Sơn Hải. Tháng ba, chúng chiếm Nhiệt Hà, tấn công Hoa Bắc.)

Dân Quốc năm thứ 23, 95 tuổi. (1934/35)

Mùa xuân, một bước tiến nữa để hoàn hảo chương trình giáo dục nơi Phật học viện tại Cổ Sơn là thỉnh lão pháp sư Từ Chu làm viện chủ. Tháng hai, vào đêm nọ, trong lúc tọa thiền, tâm tôi dường như đang mộng mà cũng chẳng phải mộng, thấy Lục Tổ đại sư đến bảo: “Đã đến lúc rồi, Thầy hãy trở về!”

Hôm sau, tôi bảo đệ tử là Quán Tâm: “Duyên đời của Thầy chắc không còn lâu đâu. Hôm qua Lục Tổ đại sư gọi Thầy trở về!”

Thấy Quán Tâm buồn bả, tôi an ủi. Đến giữa tháng tư, đêm nọ, mộng ba lần, thấy Lục Tổ thúc giục tôi trở về. Thật là việc lạ kỳ. Chẳng bao lâu, tôi nhận điện tín từ chính quyền tỉnh Quảng Đông. Họ muốn thỉnh tôi về sửa chữa đạo tràng Lục Tổ. Tôi nghĩ đến thánh địa đó, hiện tại rất cần tu bổ sửa sang. Trước kia, lần sửa chữa cuối cùng là do ngài Hám Sơn (1546-1623) đảm trách. Thế nên, tôi mang hành lý đi về Lĩnh Nam.

Khi xưa, tướng quân Lý Hán Hồn lúc đóng quân tại vùng phía bắc tỉnh Quảng Đông, tận mắt thấy chùa Nam Hoa bị hư hoại nặng nề, nên tự sửa sang đôi chút, từ tháng chín năm 1933 đến tháng tám năm 1934. Mùa đông, tại chùa Nam Hoa, chư hộ pháp cố thỉnh tôi truyền giới. Vì phòng ốc, điện đường bị hư hoại, sụp đổ, nên chúng tôi tạm cất những mái chòi tre để cho cả trăm tăng chúng cư ngụ. Quan thân sĩ thứ vùng Quảng Châu và Triều Châu cùng quyến thuộc đến thọ giới quy y. Mười bảy tháng chạp, kết đàn tràng tại chánh điện. Tối đến, đang khi truyền giới Bồ Tát, có một con hổ đến, như thể muốn thọ giới quy y, khiến toàn thể đại chúng đều hoảng sợ. Tôi truyền tam quy y và thuyết giới cho hổ. Nó có vẻ như hiểu biết mà thọ nhận, rất thuần thục. Thọ giới xong, nó liền bỏ đi.

(Phụ chú: Mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, kiến lập đạo tràng xong. Tối nọ, khi bốn chúng cùng quan dân sĩ thứ đồng tụ hội tại chánh điện, thì Giang Khổng Ấn, lúc đang đứng trên lầu các, phát hiện ra trước cửa chùa Nam Hoa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Đến gần, thấy rõ đó là hổ, nên ông ta liền la lên. Quân lính cầm súng định bắn thì kịp lúc Vân Công bước ra cản lại. Hổ liền quỳ xuống. Vân Công thuyết tam quy y, cùng dạy nó rằng hãy nên ẩn trong núi thẩm rừng sâu, chớ có ra ngoài hại người. Hổ cúi đầu ba lần rồi đứng dậy, đi trở vào rừng, nhưng với điệu dạng rất quyến luyến. Kể từ đó, mỗi năm hổ đều xuất hiện một hai lần. Vài lúc, núi rừng tuyệt không dấu tích các loài cầm thú khác vì nghe tiếng rống của hổ. Vân Công đôi khi đi ra gặp nó, vỗ về an ủi lời lành thiện. Việc hổ già quy y Tam Bảo thật rất kỳ lạ. Được nghe Vân Công trong lúc thuyết giới có nói bài kệ:

“Hổ biết quy y Phật, Tánh chánh không hai,
Tâm người, tâm thú,
Đồng tạng quang minh.”

(Đại sự trong năm: Phổ Nghị tại Trường Xuân, Mãn Châu xưng đế, cải hiệu là Đại Đồng.)

Dân Quốc năm thứ 24, 96 tuổi. (1935/36)

Mùa xuân, tướng Lý Hán Hồn được thuyên chuyển về vùng phía đông tỉnh Quảng Đông. Thế nên chúng tôi mất đi một vị đại hộ pháp. Việc kiến lập tự viện ngày một khó khăn. Sau kỳ truyền giới, theo lời thỉnh mời của Đông Hoa Tam Viện, tôi qua Hồng Kông, kiến lập đàn tràng Thủy Lục Không tại vườn Đông Liên Giác Uyển. Phật sự xong, tôi trở về Cổ Sơn, từ chức trụ trì. Tôi thỉnh lão hòa thượng Thạnh Huệ kế nhậm chức trụ trì. Sau đó, tôi liền trở lại chùa Nam Hoa. Việc đầu tiên là tôi cho tu bổ lại chánh điện thờ chư Tổ Sư, xây điện thờ Bồ Tát Quán Ấm, và cất phòng xá. Tháng chạp, nơi phía bắc đình Phục Hổ, thuộc phía nam suối Trác Tích, có ba cây tùng cổ xưa, trồng từ đời Tống (960-1279), đã khô héo trong vài trăm năm, nay đột nhiên ra lá. Thủ tọa Quán Bổn có ghi lại việc lạ kỳ này. Bài ký sự được cư sĩ Sầm Học Lữ khắc trên đá tại chùa.

Dân Quốc năm thứ 25, 97 tuổi. (1936/37)

Mùa xuân, việc tu sửa điện đường phòng xá từ từ được hoàn tất. Tổng thống Dân Quốc, ông Lâm Tử Siêu, bộ trưởng, ông Cư Chánh, tướng Tưởng Trung Chánh v.v…, lần lượt đến chùa Nam Hoa. Hai ông, Lâm Tử Siêu và Cư Chánh, hộ trợ việc xây cất trùng tu đại điện. Tướng Tưởng Trung Chánh cúng dường tiền để mướn nhân công đào sửa lại con suối chạy ngang qua chùa. Tuy nhiên, vào lúc cuối, không cần nhân lực, nhưng vẫn hoàn thành. Thật biết ơn chư long thần hộ pháp đã gia hộ.

(Phụ chú: Con suối chảy ngang chùa Nam Hoa, xưa vốn cách xa khoảng một trăm bốn mươi thước. Vì lâu năm không đào vét, nên cát đá lấp đi, khiến nước chảy về hướng bắc, thẳng đến cửa chùa. Để đưa con suối trở lại hướng cũ, phải cần mướn khoảng ba ngàn nhân công, tốn kém rất nhiều. Ngày hai mươi tháng bảy, chuẩn bị khởi công thì tối hôm đó, trời đổ mưa to, rơi xuống như muôn ngàn con ngựa đang chạy đua. Sáng hôm sau, dứt mưa, nước tràn ra bờ suối, chảy dài theo hướng mà chúng tôi ước muốn. Đất đá của con suối trước, đắp thành bờ đê cho con suối sau này, cao cả vài thước. Dường như long thần hộ pháp đã giúp đỡ chúng tôi sửa lại hướng của con suối này.)

Dân Quốc năm thứ 26, 98 tuổi. (1937/38)

Sau kỳ truyền giới vào mùa xuân, thể theo lời thỉnh cầu của hội cư sĩ Tuệ Viên, tôi đi giảng kinh tại Quảng Châu. Khi ấy, có các vị Lạt Ma người Tây Tạng cùng vài mươi người đến gặp tôi. Tăng chúng ở vùng Phật Sơn, thỉnh tôi đến đó làm lễ khai quang cho bảo tháp tại chùa Nhân Thọ. Kế đến, tôi lại trở về chùa Nam Hoa lo coi sóc công trình xây dựng các tự viện.

(Đại sự trong năm: Ngày bảy tháng bảy, quân Nhật vây cầu Lô Giang. Quân dân thối lui về Bắc Bình. Chiến tranh Trung-Nhật lan tràn khắp nơi. Tháng chạp, Nam Kinh bị vây hãm. Chánh phủ Dân Quốc tuyên bố dời đô về Trùng Khánh.)

Dân Quốc năm thứ 27, 99 tuổi. (1938/39)

Kỳ truyền giới vào mùa xuân xong, tôi đến Tuệ Viên giảng kinh. Giảng xong, tôi đi Hồng Kông, đến vườn Đông Liên Giác Uyển, kiến lập pháp hội Đại Bi Sám Pháp. Qua mùa thu, tôi trở lại chùa Nam Hoa.




Có phản hồi đến “Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân - Phần 3”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com