Mục Lục

Chu Nguyên Chương, vị Hoàng Đế khai quốc của nhà Minh, là một người sau khi đã tham gia các cuộc khởi nghĩa nông dân ở cuối đời nguyên rồi dần dần phát triển thế lực quét sạch các đám xưng bá ở các nơi, cuối cùng ông đã lật đổ nền thống trị của nhà Nguyên, lập nên triều Minh và làm nên Hoàng Đế. Là một nhân vật xuất thân từ tầng lớp thấp kém trong xã hội, dần dần phát triển thế lực rồi trở thành một hoàng đế của nhà nước phong kiến, suốt đời Chu Nguyên Chương có một mối liên hệ không bao giờ dứt với Phật giáo. Chu Nguyên Chương là Trùng Bát, tự là Quốc Thuỵ, là người thôn Thái Bình ở Chương Lý, Hào Châu ( ngày nay là huyện Phương Dương tỉnh An Huy). 

Xuất thân từ nông dân nghèo khổ, gia cảnh nhà Chu Nguyên Chương vô cùng túng bấn, ông cha của Chu Nguyên Chương đời đời làm tá điền cho địa chủ, bản thân Chu Nguyên Chương ngay từ bé đã phải đi chăn trâu cho địa chủ. Năm 17 tuổi do bị mất mùa và xảy ra dịch bệnh nên đã cướp mất đi sinh mạng của cha me, người anh cả của Chu Nguyên Chương. Trở thành kẻ cô đơn không nơi nương tựa, ông đành phải đến chùa Vu Giác xin xuất gia làm chú tiểu, chuyên làm công việc tạp dịch để mong sao có cơm ăn qua ngày. Nhưng thế vẫn chưa được yên. Sau khi ông vào chùa Vu Giác được 50 ngày, vị hoà thượng trụ trì ngôi chùa này lấy lí do là năm nay mất mùa đói kém nên cử chúng tăng di tản khắp nơi. Chu Nguyên Chương cũng đành phải ra đi, làm một vị sư sống lang thang. Ông sống lang thang ở vùng phía tây sông Hoài 3 năm, sau đó mới quay về chùa Vu Giác.

 Vào năm Chí Linh xin xuất gia làm chú tiểu, chuyên làm công việc tạp dịch để mong sao có cơm ăn qua ngày. Nhưng thế vẫn chưa được yên. Sau khi ông vào chùa Vu Giác được 50 ngày, vị hoà thượng trụ trì ngôi chùa này lấy lý do là năm nay mất mùa đói kém nên cử chúng tăng đi tản mát khắp nơi. Chu Nguyên Chương cũng đành phải ra đi, làm một vị sư sống lang thang. Ông sống lang thang ở vùng phía tây sông Hoài 3 năm, sau đó mới quay trở về chùa Vu Giác. Vào năm Chính Chính thứ 11 (Nguyên Thuận Đế, năm 1351), Lưu Phúc Thông dựng cờ khởi nghĩa ở Dĩnh Châu (ngày nay là Phu Dương tỉnh An Huy), tổ chức một đội quân khăn đỏ, chính thức châm lên ngọn lửa rừng rực của cuộc chiến tranh nông dân cuối đời Nguyên. Vào tháng 2 năm sau, Quách Tử Hưng cũng dựng cờ khởi nghĩa ở Hào Châu hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lưu Phúc Thông. Lúc này một người đồng hương cùng tham gia cuộc khởi nghĩa Hào Châu với Quốc Tử Hương đã bí mật báo tin cho Chu Nguyên Chương, khuyên Chu Nguyên Chương đến góp sức cùng nghĩa quân. Nhưng không may chuyện này đã bị người khác biết, họ liền báo cho quan phủ.

 Đúng vào thời điểm này, chùa Vu Giác bị hoả hoạn thiêu trụi, Chu Nguyên Chương lúc này trở thành người tiến thoái lưỡng nan, đành phải lên Lương Sơn, một thân một mình đến Hào Châu nương nhờ Quách Tử Hưng, làm một anh lính. Năm đó ông 25 tuổi, sau khi theo nghĩa quân, Chu Nguyên Chương vì là một người túc trí đa mưu, thiện chiến và dũng cảm nên không bao lâu sau ông được Quách Tử Hưng bổ nhiệm chức Cửu Phu Trưởng, hơn thế nữa Quách Tử Hưng thường đến bàn mưu tính kế với ông. Trong khi tiếp xúc với Chu Nguyên Chương, Quách Tử Hưng nhận ra ông là người có tài năng phi phàm, bèn đem người con gái nuôi của mình tên là Mã Thị gả cho ông ta. 

Chu Nguyên Chương không chỉ có một vị trí vững chắc trong nghĩa quân mà hơn thế nữa ông đã trở thành người con rể của thủ lĩnh nghĩa quân. Điều này đã đặt cơ sở vững chắc cho việc ông ta tiếp tục vươn lên và phát triển thanh thế. Sau khi Quách Tử Hưng mất không được bao lâu thì Chu Nguyên Chương trở thành thủ lĩnh của nghĩa quân này. Về sau, trải qua hơn chục năm nam chinh bắc chiến Chu Nguyên Chương đã áp dụng phương châm chiến lược "một mũi tên trúng hai đích: Ông tìm cách lật đổ nhà Nguyên đồng thời dẹp các cuộc khởi nghĩa khác. Cuối cùng vào năm 1367, ông chính thức đăng quang, lên Bảo Toạ làm Hoàng Đế. Vào tháng giêng năm sau, ông đặt tên nước là Đại Minh, xưng là Minh Thái Tổ, hiệu là Hồng Võ, định đô ở Nam Kinh.

Do có một thời kỳ xuất gia làm tăng sỹ nên Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương dẫu sao cũng có hiểu biết về Phật giáo. Ông ta xét thấy có nhiều điều không tốt trong việc nhà Nguyên sùng tín Lạt Ma Giáo, nên ông đã ra sức giúp đỡ việc hồi phục các tông phái Phật giáo của người Hán. Vào năm đầu tiên của Hồng Võ (năm 1368), khi Triều Đình nhà Minh vừa được thành lập, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương liền tổ chức một buổi lễ chiêu tập các vị tăng tại núi Tưởng Sơn ở Nam Kinh, tiến hành lựa chọn các vị tăng trụ trì cho các chùa, mở pháp hội cầu phúc cho Vương Triều Đại Minh vừa mới thành lập. Do đó Minh Thái Tổ khi vừa đăng quang đã lập tức tổ chức pháp hội để hộ trì Phật giáo. 

Theo ghi chép trong sử sách có liên quan, ông ta vì muốn mọi người tránh khỏi nạn đao binh đâm chém lẫn nhau, xác phơi đầy đồng, mà muốn mọi người sống thanh tịnh trong sáng, do đó không dùng Phật giáo thì không thể nào độ được. Điều này trên thực tế ông muốn đề cao Phật giáo để làm yên lòng dân, từ đó tăng cường củng cố cho Vương Triều phong kiến mới ra đời, mục đích chính trị của Minh Thái Tổ là coi Phật giáo như một công cụ thống trị. Trong mấy năm đầu của Hồng Võ, hầu như hàng năm Minh Thái Tổ đều tổ chức một lễ chiêu tập các tăng tại các chùa lớn ở Nam Kinh, mở pháp hội để cầu chúc cho nhà nước phong kiến của mình được bền vững. Hơn thế nữa mỗi lần như vậy, đích thân Minh Thái Tổ đều dẫn các bách quan văn võ tham dự để pháp hội thêm long trọng. 

Từ đó ta có thể thấy thái độ coi trọng biện pháp an lòng dân này. Đồng thời với việc vào những năm đầu của Hồng Võ, Chu Nguyên Chương cho triệu tập các vị tăng chúng để chọn người trụ trì và tổ chức pháp hội để đề cao Phật giáo rồi lợi dụng Phật giáo thì ở Nam Kinh ông cũng cho lập Thiện Thế Viện ở chùa Thiên Giới, lệnh cho vị tăng tên là Tuệ Đàm quản lý Phật giáo. Ông còn lập ra các chức vị như Thống Lĩnh, phó Thống Lĩnh, Tán Giáo, Kỷ Hoá để họ quản lý việc bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm các vị trụ trì ở các chùa lớn. Đây là hệ thống quản lý Phật giáo trong toàn quốc được chính quyền phong kiến tổ chức thành lập. Mục đích của việc thành lập tổ chức này là đặt Phật giáo dưới quyền quản lý của chính quyền phong kiến và để Phật giáo được lớn mạnh.

Vào năm Hồng Võ thứ 6 (năm 1373), Minh Thái Tổ ban chiếu phát tờ độ điệp cho tất cả các tăng ni trong toàn quốc mà không được thu một đồng lệ phí nào. Từ đời Đường Tống trở lại đây, chính quyền phong kiến phần lớn là bán các tờ độ điệp cho các vị tăng, tức là coi tờ độ điệp như một thứ hàng hoá để mua bán, mục đích là làm tăng thêm nguồn thu thập cho nhà nước phong kiến, về mặt khách quan thì làm như vậy cũng đã ngăn chặn một số người nghèo muốn xuất gia khiến cho họ không thể vì nghèo mà tuỳ tiện xuất gia. Lúc náy Minh Thái Tổ hạ chiếu phát tờ độ điệp miễn phí làm ông muốn tạo điều kiện thuận lợi cho những người muốn xuất gia làm tăng, từ đó mà chân hưng Phật giáo truyền thống của người Hán để Phật giáo phục vụ mục đích chính trị của nhà nước phong kiến. 

Từ đó trở đi, Minh Thái Tổ còn hạ chiếu quy định mỗi năm tổ chức một buổi lễ phát độ điệp, chỉ có các vị tăng sau khi vượt qua một kỳ kiểm tra mới được lĩnh tờ độ điệp. Để giúp cho các tông phái truyền thống của người Hán được tăng cường phục hồi và phát triển thì vào những năm đầu của Hồng Võ, Minh Thái Tổ còn ra một bản thánh chỉ đặc biệt cho Bộ Lễ của Triều Đình có nội dung như sau: "Các vị tăng trong toàn quốc cho dù người Nam hay người Bắc chỉ cần quy y Tam Bảo, thọ ngũ giới, trù trai, không uống rượu, học tập và nghiên cứu kinh sách thì dù ở nông thôn, ở thành quách hay vùng sơn lâm thì đều có thể tuỳ ý lập đàn lên ghế ngồi giảng, tập hợp nhân dân mở pháp hội giảng kinh thuyết giáo, hoá độ chúng sinh. Điều này là ông muốn từ góc độ nhà nước phong kiến tạo điều kiện thuận lợi cho các vị tăng đi các nơi khác truyền bá Phật giáo, cho phép các vị tăng dù là ở nông thôn hay thành phố đều có thể tiến hành các hoạt động pháp hội.

Để giúp cho Phật giáo của người Hán được phục vụ mau chóng và phát triển mạnh mẽ hơn, một con người am hiểu Phật giáo như Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương không chỉ về bề ngoài thì ông bảo hộ Phật giáo về mặt tổ chức các hoạt động mà ông còn đi sâu vào tiến hành chỉ đạo sử dụng Phật giáo. Vào năm thứ 10 của Hồng Võ (năm 1377), Minh Thái Tổ hạ chiếu lệnh cho sa môn ở các nước tiến hành tụ tập và giảng các bộ kinh như "Tâm Kinh", "Kinh Kim Cang", "Kinh Lăng Già", đồng thời đã cử ra một số người chuyên môn chú thích 3 bộ kinh kể trên, bản thân ông cũng đã viết lời tựa cho 3 bộ kinh trên rồi phân phát khắp nơi thiên hạ. Sau này ông còn hạ chiếu chỉ quy định cụ thể các sa môn Phật giáo nên tổ chức các pháp hội giảng kinh, tụng kinh như thế nào. Ông yêu cầu: "giờ đây nghi thức pháp sự của Du Già hiển và Du Già mật cùng với những lời mật chú chân ngôn cần phải được tiến hành khảo sát lại một cách thận trọng. Nếu là phép tắc đã có sẵn từ trước thì cho thi hành ở các tự viện trong thiên hạ và phải tuân thủ vĩnh viễn để nó trở thành một thứ đạo mà con cháu chúng ta phải cố gắng đeo đuổi, là một thứ đạo mà nhân dân ở các châu dùng để cầu mong tránh tai hoạ. 

Những ai muốn tụng kinh thì nhờ vào vị tăng Lục Tư (đây là cơ cấu do Triều Đình lập nên để quản lý các chùa và các tăng sỹ của Phật giáo), viết giấy giới thiệu cho các vị trụ trì ở các chùa và các vị tăng quản lý ở xứ (vùng) biết, sau đó phái họ đến kinh sư học tập, nghiên cứu pháp sự và nghi thức tụng kinh, sau khi trở về cho nghiên cứu tiếp 3 năm. Nếu như có ai đó vẫn chưa hiểu được thì một năm sau cho thi lại nếu như ai đó đã tụng kinh thông thạo rồi thì có thể phát độ điệp, cho phép đi tụng kinh làm Phật sự. Nếu như ai đó chưa làm được như vậy thì bắt hoàn tục, trở thành thường dân, không cho phép tụng kinh và làm Phật sự". Có một vị Hoàng Đế phong kiến đích thân ra một quy định cụ thể như vậy để các vị tăng biết cần phải tổ chức tụng kinh và thực hiện pháp sự như thế nào, thì đó là điều rất hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Sở dĩ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tiến hành hộ trì Phật giáo như vậy là vì ông muốn sử dụng Phật giáo như một công cụ phục vụ cho mục đích thống trị của mình. 

Ông cũng đã từng nói với các tăng ni như sau: "Ngày xưa Thích Ca để tu đạo, ngài đã tránh thế gian một mình lên núi Tuyết Sơn tu hành, không dính dáng gì với thế tục, như vậy mà ngài thành đạo, thông hiểu lưỡng gian (Âm gian và Dương gian), linh thông thượng hạ, khiến cho các vị thần vừa phải bảo vệ ngài, vừa phải lắng nghe ngài. Vì vậy những người thiện trên thế giới càng ngày càng nhiều, nhưng kẻ gian ác càng ngày càng ít thấy. Do đó, những người đứng đầu thiên hạ cai quản thế gian cần phải quản lý theo đường lối giảm việc đặt các hình pháp mà là do Phật giáo hoá mà họ dần dần sống lương thiện hơn". Đoạn nghị luận này vừa khẳng định tác dụng cai quản thiên hạ của Phật giáo, ông lại vừa đem việc thực thi các biện pháp thống trị của mình nói thành yêu cầu của Phật giáo, điều này vô hình chung lại càng tăng thêm lòng tín nhiệm của Phật giáo với ông ta.

Vì là một người rất có nhiệt huyết trong việc hộ trì Phật giáo nên những công việc của Phật giáo thì Chu Nguyên Chương cũng cần phải tham gia một cách tự nhiên, vì vậy cũng không khó hiểu vì sao ông ta lại quy định cụ thể việc các vị tăng sỹ phải nghiên cứu những kinh gì và tụng kinh ra sao. Không chỉ có vậy mà trong cả việc chọn các vị trụ trì ở các chùa ông cũng đều đích thân tham dự, đồng thời nêu nên những ý kiến của mình. Vào tháng 4 của năm Hồng Võ thứ 21 (năm 1388), ông ban chiếu nói rõ bốn ngôi chùa ở Nam Kinh là chùa Linh Cốc, chùa Vô Giới, chùa Năng Nhân, chùa Kê Minh là 4 ngôi chùa to nổi tiếng của Kinh Sư (Kinh Đô), người trụ trì 4 ngôi chùa ấy phải chọn người có đức hạnh, còn lại phải kiểm tra xem họ có thông hiểu Bản giáo hay không mới có thể bổ nhiệm người trụ trì 4 ngôi chùa nói trên, không thể làm bừa. Là một vị Hoàng Đế của nhà nước phong kiến, việc nhiệt tình hộ trì Phật pháp của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương còn được thể hiện ở phương diện khác, tức là ông đã dùng quyền lực của nhà nước phong kiến để kiểm soát Phật giáo khiến cho sự phát triển của Phật giáo phải có liên hệ với hệ thống thống trị của nhà nước phong kiến. Từ những biện pháp cụ thể trên ta có thể thấy rằng, mặc dù ông đã tiến hành chỉnh đốn Phật giáo nhưng về căn bản ông vẫn hộ trì Phật pháp.

Một mặt khác của việc Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chỉnh đốn đồng thời hộ trì Phật pháp là ông muốn nhằm thẳng vào việc chùa, tự viện lúc bấy giờ quá nhiều để chấn chỉnh lại. Vào ngày 6 tháng 6 năm Hồng Võ thứ 24 (năm 1391), Chu Nguyên Chương lại cho ban bố "Thần Minh Phật Giáo Bảng Sách", trong chiếu thư kèm theo việc ban bố cuốn sách này ông đã nói rõ mục đích của cuốn sách đó: "nay các vị tăng trong thiên hạ đa số là ở lẫn với dân trong thế tục, có những vị có những hành vi không giống người ở thế tục, đó là những biểu hiện làm xấu đi tôn giáo của mình, do đó cần phải tiến hành gạt bỏ những việc này để bảo hộ Phật giáo", cuốn "Bảng Sách" có tất cả 10 điều.

 Trong đó điều thứ nhất nói rằng: "Từ sau khi xảy ra nạn đao binh, các tăng ni nhiều không đếm xuể, các phủ các châu phải tiến hành kiểm tra và thống kê lại các tăng ni. Nếu có vị tăng ni ở lẫn với dân thì dồn vào các ngôi chùa, có pháp thì phải có quy tắc để người ta được an thiền, những ai tu thiền thì phải tuân thủ theo tông phái mình, quán tâm ngay thẳng để chứng thiện quả, những người đi giảng kinh thuyết pháp, diễn giải những lời hay ý đẹp của Thích Ca, dẫn dắt nhân dân thoát khỏi mê muội v.v...". Điều này muốn nói rằng, các vị tăng lúc đó ở lẫn lộn trong nhân dân, cần phải dồn các vị về một nơi để có điều kiện thực hành đúng tông phái mà họ đang tu tập. Điều thứ hai nói rằng: "Sau khi ban chiếu lệnh này, vị tăng nào đó không giám vào chùa, cứ ở thế tục lén lút lấy vợ sinh con, nếu như bị người khác phát hiện tố cáo cho quan phủ hoặc bị quan phủ bắt được thì phải bị chém đầu làm gương cho mọi người. Những ai cố tình bao che chứa chấp thì bị đưa đi lưu đầy ở nơi xa ba ngàn dặm". 

Điều luật này là nhằm ngăn ngừa các vị tăng không muốn vào sống trong chùa mà muốn sống ở nhân gian để lấy vợ sinh con. Điều đó vừa phá hoại quốc pháp (pháp luật của nhà nước), vừa phá hoại tăng luật (giới luật giành cho các vị tăng), cần phải nghiêm trị không tha thứ. Điều 9 nói rằng: "Các vị tăng đi sống tản cư ở khắp nơi thì có quyền tự do mộ hoá (còn gọi là hoá duyên, tức là mộ tập và khuyến hoá), và nhận cúng dường, các vị quan nha và các vị tăng quản ở các ngôi chùa không được can thiệp, sách nhiễu". Điều luật này muốn nhấn mạnh rằng, Phật giáo là một tôn giáo được phép tự do hoạt động. Ngoài ra, trong "Bảng Sách" còn quy định cụ thể ở các châu, các phủ, huyện chỉ được phép giữ lại một ngôi chùa to, các vị tăng ở các ngôi chùa cấp phủ không được quá 40 người, các chùa cấp châu không được quá 30 vị tăng, trong chùa cấp huyện không được quá 20 người. "Bảng Sách" còn quy định rằng, những nam giới chưa quá tuổi 40, những phụ nữ chưa quá 50 thì chưa được phép xuất gia. Công bố "Bảng Sách" có vẻ là chỉnh đốn hoặc hạn chế Phật giáo, nhưng thực chất là "gạn đục khơi trong" để làm trong sạch nội bộ Phật giáo, mục đích cơ bản là giúp cho Phật giáo phát triển đàng hoàng, từ đó phục vụ cho nền thống trị của nhà nước phong kiến.

Sau khi cuốn "Thân Minh Phật Giáo Bảng Sách" được công bố và phân phát đi các nơi, do các quan lại trong quá trình thực hiện có làm sai lệch chút ít, điều đó làm cho Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương vô cùng tức giận. Vào năm Hồng Võ thứ 27 (năm 1394), ông lại ban chiếu thư giải thích rõ việc chỉnh đốn Phật giáo. Chiếu thư gồm có 9 điều:

1. Không cho phép các tăng lấy lý do đi hoá duyên (mộ tập và khuyến hoá) mà vào trong các thôn làng, trong thành thị. Nếu như thấy điều này thì bắt ngay mang đến quan phủ, trị vào tội làm bại hoại phong tục của tổ tiên.

2. Các am, tịnh xá trong các tự viện thì phải có tăng đứng đầu để giải thích mọi việc. Tăng ni khi vào các phòng khách của các công sở nhà nước không được mặc y phục Phật giáo. Nếu làm như vậy thì coi là như phạm tội, trước tiên là phải cởi bỏ y phục, sau đó sẽ bị bắt.

3. Các mảnh ruộng cấp cho các chùa thì được miễn thuế lương thực, những ai canh tác trên những thửa ruộng đó nếu như đã nộp thuế lương thực thì được miễn hoàn toàn việc sai dịch.

4. Các vị tăng cư trú cố định và các vị tăng sống tản mát các nơi, nếu như có mối quan hệ mật thiết với quan phủ thì liệt vào trọng tội.

5. Các vị tăng được ở thành phố thì cứ 30 người trở lên thì phải vào một ngôi chùa.

6. Cho phép một vài vị cao tăng có đức hạnh đặc biệt được vào rừng sâu tu hành.

7. Các vị tăng nếu như lấy vợ thì cho phép người khác được đánh mắng, sau đó phải nộp tiền phạt. Nếu như không có tiền sẽ bị đánh chết mà người đánh sẽ bị đánh chết mà người đánh sẽ vô tội.

8. Vị tăng nào lấy vợ và có con cái, nếu như muốn hoàn tục thì cho phép hoàn tục. Nếu như có vị tự nguyện rời bỏ vợ con để tiếp tục tu hành cho phép tiếp tục tu hành.

9. Người thế tục khi vào chùa thăm các vị tăng thì cần phải học hỏi hoặc hiển dương (tuyên truyền) Phật giáo, không được quan hệ lén lút với các vị tăng. Các vị tăng cũng không được có tư tình hoặc tâm hẹp hòi.

"Thân Minh Bản Văn" này là sự bổ sung và chỉ đạo cụ thể đối với "Bảng Sách" đã ra đời trước đó, mục đích của nó, là "gạn đục khơi trong" để Phật giáo được tốt đẹp hơn. Do đó trong bản "Thánh Chỉ" của "Bảng Thân Minh" lần này Chu Nguyên Chương chỉ rõ: "Các vị tăng ni nếu như làm đúng quy định của Trẫm thì cho dù là ở nơi rừng núi, cho dù là vị tăng cư trú ở một nơi hay đi du phương khắp nơi thì cũng không được phép ở lẫn với dân, không được tuỳ tiện vào trong làng xã, thành phố. Các vị quan lại phải học các vị tăng tụng kinh, như thế là rất tốt, sau khi làm như vậy khoảng một năm, Phật giáo chắc chắn sẽ hưng thịnh. Bảng này sau khi được ban hành, nếu như nhân dân, quan lại tăng sỹ có ai đó bàn luận lung tung thì xử cực hình (tử hình). Từ đó có thể thấy rằng, lần này để đạt được mục đích của mình, Chu Nguyên Chương đã hạ quyết tâm rất lớn.

Dưới tác dụng của việc hộ trì Phật giáo trên 2 phương diện khác nhau, Phật giáo trên đất Hán được phục hồi một cách nhanh chóng. Hai phái của Thiền Tông Trung Quốc là Tào Động và Lâm Tế dần dần lớn mạnh và được phát triển công khai, đàng hoàng. Một số tăng đoàn Phật giáo còn nhiệt tình phục vụ cho nền thống trị của nhà nước phong kiến, điều này trên một mức độ nào đó đã làm tăng lòng tín nhiệm của Chu Nguyên Chương với Phật giáo và tăng đoàn. Vào năm thứ 3 của Hồng Võ (năm 1370), Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cử một vị tăng tên là Tuệ Đàm đi thăm một số nước vùng miền tây. Ngài dẫn đầu một đoàn hơn 20 người đến thăm các nước, vào cuối năm sau ngài đến nước Tăng Già La (ngày nay là Sry - lan - ka). Ngài Tuệ Đàm vì tuổi cao sức yếu sau khi đến đất nước Tăng Già La không được bao lâu thì ngài đổ bệnh, bệnh nặng khó khỏi, ngài biết rằng mình không thể quay về nước được nữa nên viết thư thỉnh tấu lên Quốc Vương nước Tăng Già La xin ở lại đó, sau đó ngài viên tịch. 

Vào năm Hồng Võ thứ 10, ngài Tông Lặc lại kế tục chí hướng của ngài Tuệ Đàm, phụng mệnh của Minh Thái Tổ dẫn đoàn Phật tử 30 người tiếp tục đi thăm viếng các nước miền tây, ngài đi trong 6 năm. Đến năm Hồng Võ thứ 15 (năm 1382), ngài mới về nước. Ở Ấn Độ ngài Tông Lặc đã xin được một khối lượng lớn kinh Phật. Vào năm Hồng Võ thứ 4 (năm 1371), Thân Vương Thái Tổ phủ Hoài Lương của Nam triều nước Nhật Bản đã cử vị tăng Tổ của Nhật Bản đến triều Minh kết giao hữu hảo với Trung Quốc. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương liền cử ngay hai vị là Tổ Xiển của Thiền Tông và vị tăng Khắc Cần của Thiên Thái Tông (Pháp Hoa Tông), hộ tống sư tổ Nhật Bản về nước. Hai vị này sau khi đến Nhật Bản, do có các cuộc tiếp xúc và trò chuyện nên đã từng bị bắt, về sau lại được thả. 

Có một số tăng sỹ Nhật Bản đã học tập và nghiên cứu Phật pháp từ 2 vị này nên ở Nhật Bản, hai vị có ảnh hưởng rất lớn. Vào năm Hồng Võ thứ 7 (năm 1374), hai vị về nước đến Nam Kinh, do chuyến đi sứ mệnh của họ gặp đầy trắc trở nên Minh Thái Tổ đã ban thưởng cho 2 vị, đồng thời lệnh cho Thiền tăng Khắc Cần phải để cho râu tóc mọc trở lại, ra làm quan. Vào năm Hồng Võ thứ 17 (năm 1384), Minh Thái Tổ lệnh cho vị tăng Trí Quang cùng đồ đệ của ngài là vị tặng Huệ Biện mang chiếu thư (ấn thư) trang trí dây tua nhiều màu của Vua Trung Quốc sang nước Nê Bát Thích (ngày nay là Nê Pan), vị Vương của Nê Pan tên là Mã Đạt La Ma cũng cử sứ giả đi theo ngài Trí Quang về Nam Kinh, dâng hiến các thứ như tháp vàng, kinh Phật và những con ngựa tốt. Năm Hồng Võ thứ 20 (năm 1387), họ đến Nam Kinh, Minh Thái Tổ liền đáp lại họ bằng sách ngọc Đồ Thư được in bằng bạc và tràng phướn nhiều màu. Sau khi trở về nước, ngài Trí Quang liền phiên dịch một vài quyển kinh Phật mà ngài mang từ Nê Pan về. Sự thực lịch sử kể trên chứng tỏ rằng, sự giao lưu giữa Triều Đình nhà Minh thời Minh Thái Tổ với các nước Tây vực (miền Tây), Nhật Bản, Nê Pan thì đều cử các vị tăng Phật giáo đi làm sứ giả. Từ đó ta có thể thấy lòng tín nhiệm cực lớn của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương với các vị tăng Phật giáo. Nhưng điều này trên thực tế đã thúc đẩy thêm sự giao lưu văn hoá giữa Trung Quốc với nước ngoài.

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương từ chỗ hộ trì Phật giáo trên nhiều phương diện khác nhau mà giúp cho Phật giáo phát huy được một chút tác dụng trên lĩnh vực thống trị chính trị của ông. Nhưng Chu Nguyên Chương cũng có một tâm lý tự ti, có thể coi là bệnh hoạn trong việc trước đây mình đã làm một vị sư. Ông lo sợ vì chuyện này mà người ta coi thường ông. Cho nên ông rất kỵ huý 3 chữ "Tăng", "Quang", và "Thốc" (tức là đầu trọc hoặc đầu hói). Vào đầu những năm Hồng Võ có một vị Học Huấn Đạo (thầy giáo) ở phủ Thường Châu tên là Tưởng Châu đã viết một bức biểu chức mừng năm mới tặng quan phủ sở tại, trong đó có một câu có nội dung là: "Duệ Tính Sinh Trí" (kẻ nhìn xa trông rộng, thấu suốt mọi việc là kẻ giỏi), trong đó có chữ "Sinh" tiếng Hán đọc là "shèng" thì bị Chu Nguyên Chương quy thành chữ "Tăng" (tiếng Hán đọc là sèng), ông này liền bị xử tội chết. Ngoài ra, còn có một ông giáo học tên là Dụ Giả Trợ ở huyện Thường Phú cũng viết một bức biểu chúc mừng năm mới tặng quan huyện sở tại, trong đó có một câu có nội dung là: "Thủ Pháp Thượng Quỷ" trong đó câu "Thủ Pháp" bị Chu Nguyên Chương quy thành nghĩa là "Khử Pháp" (tức là rụng hết tóc) hoặc trọc đầu cũng bị liệt vào tội chết. 

Cũng có một ông giáo học tên là Dụ Hứa Nguyên ở huyện Uý Thị viết một bức biểu chúc mừng tuổi thọ tặng quan phủ sở tại trong đó có câu "Thể Càn Pháp Khôn", bị Chu Nguyên Chương suy thành nghĩa "Cạo Trọc Đầu". Ông cho rằng câu này chế giễu ông trước đây đã xuống tóc đi tu (tức là cạo tóc), liền hạ lệnh xử tội chết. Lại còn có một ông huấn đạo (dạy học) ở phủ Đức An tên là Ngô Hiến viết một bảng biểu chúc thọ tặng quan phủ nội dung có 8 chữ "Thiên Hạ Hữu Đạo, Vọng Bái Thanh Môn". Chu Nguyên Chương cho rằng, từ "hữu đạo" ("Đạo ở đây là con đường, đạo đức) ở đây có nghĩa là "đạo tặc" tức là tên kẻ trộm, câu này có ý chế giễu Chu Nguyên Chương đã từng tham gia quân khăn đỏ. Câu "thành môn" có ý chỉ các chùa miếu hoặc tăng ni. Như vậy là chế giễu ông đã làm tăng sỹ do đó cũng ban xử tội chết. Lại còn có một học sỹ ở phủ Hàng Châu tên là Từ Nhất Quỳ cũng viết biểu chúc mừng, nội dung cũng có 8 chữ "Quang Thiên Chi Hạ, Thiên Sinh Thánh Nhân" (trời đất quang đãng thanh trong thì thánh nhân sẽ ra đời). Sau khi đọc câu này Chu Nguyên Chương liền tức giận quát lớn: "Sinh ở đây có nghĩa là "Tăng" đó là chửi ta đã làm hoà thượng, còn "Quang Thiên" ở đây tức là đầu trọc, ám chỉ ta đã có thời đầu trọc. Sau đó ông hạ lệnh chém đầu, Chu Nguyên Chương chế tác ra "Văn Tự Ngục" (chữ phạm huý, nếu phạm huý sẽ chết). Như vậy suy ngang đoán dọc mà phạm huý thì đều bị chết. Các vị quan viên ở bộ Lễ cũng sợ đến mức "hồn phiêu phách lạc", họ chẳng biết làm thế nào đành phải thỉnh tấu Hoàng Đế ban bố bản mẫu về chúc mừng và tạ ơn. Từ đó giúp cho nhân dân và các vị thần dựa vào đó mà thực hiện. Vào năm Hồng Võ thứ 29 (năm 1396), bảng mẫu thống nhất về tạ ơn và chúc mừng được ban bố, do đó mà tình trạng kể trên không còn tái diễn nữa.

"Văn Tự Ngục" do Chu Nguyên Chương quy định cũng không nể các vị tăng, phạm vào là chết không tha. Có một vị tăng tên là Lai Phục vì muốn lấy lòng Chu Nguyên Chương đã viết một khổ thơ trong đó có 2 câu: "Kim Bàn Tô Hợp Lai Thù Vực" và "Tự Tâm Vô Đức Tụng Đào Nguyên". Sau khi đọc xong 2 câu thơ này, Chu Nguyên Chương vô cùng tức giận, ông cho rằng chữ "Thù" có thể tách ra thành 2 chữ "Đãi" (bọn xấu, bọn thổ phỉ), và chữ "Chu" tức là ám chỉ vị Hoàng Đế họ Chu này là tên "thổ phỉ" câu "Vô Đức Tụng Đào Nguyên" ám chỉ ông ta là kẻ vô đạo đức, do đó ông liền hạ lệnh chém đầu ngay vị tăng Lai Phục này. Có một lần, Chu Nguyên Chương bí mật đến thăm một ngôi chùa, ông nhìn thấy trên tường trong ngôi chùa đó có đề một câu thơ ca ngợi Hoà thượng Bố Đại (Hoà thượng "Túi vải"): "Đại Thiên thế giới rộng mênh mông, tất cả đều đem cho vào túi. 

Rốt cuộc có tụ phải có tán, thả hết chúng đi giữ làm gì". Chu Nguyên Chương sau khi đọc xong câu thơ này, cho rằng câu thơ đó đã chế giễu mạng lưới pháp luật của ông ta quá là hà khắc, chém giết quá tàn bạo, ông liền nổi cáu hạ lệnh xử tội chết toàn bộ tăng chúng trong chùa. Liên hệ với các thủ đoạn thống trị của Chu Nguyên Chương ta thấy rằng, các điều kể trên chỉ là một mặt trong chính sách "phô trương thanh thế" của một vị hoàng đế phong kiến. Nhưng Chu Nguyên Chương vì củng cố nền thống trị của nhà nước Minh mà bảo vệ, hộ trì Phật giáo, chỉnh đốn Phật giáo, từ đó mà lợi dụng Phật giáo. Cho dù có lúc ông hơi tàn bạo nhưng có nhiều chỗ ông cao kiến hơn Vua Lương Võ Đế (ông Vua Lương Võ Đế cầm quyền năm 502 - 547 sau Công Nguyên, ông rất hâm mộ đạo Phật, thường xuyên mặc áo cà sa, ăn chay, tụng kinh niệm Phật, cho xây chùa, chép kinh sách làm lễ xuất gia cho nhiều người, nâng đỡ các tăng ni, có lúc ông còn giảng kinh thuyết pháp).

Các vị Hoàng Đế nhà Minh, sau đời Minh Thái Tổ đều có thái độ nâng đỡ, che chở Phật pháp để lợi dụng Phật giáo mà còn tự phong cho mình là Pháp Vương tự xưng là Đại Hộ Pháp Vương. Theo ghi chép, có một lần trong một ngày ông đã độ cho 4 vạn người xuất gia làm tăng, hơn thế nữa ông cũng thường xuyên khoác lên người bộ pháp y, đăng tọa giảng kinh thuyết Pháp. Vào năm thứ 5 của Chính Đức (năm 1510) ông lại tự xưng danh hiệu là Đại Khánh Pháp Vương, ra lệnh cho các ngành hữu quanh phải đúc ấn pháp dâng lên ông. Võ Tông rất mộ Phật giáo, ông thích nhất Lạt Ma Giáo. Có một lần, một số vị tăng Lạt Ma giáo xin ông ban cho 100 khoảnh ruộng (một khoảnh là 15 mẫu), Võ Tông liền ban thánh chỉ yêu cầu Bộ Lễ thực hiện lời thỉnh của các vị Tăng Lạt Ma giáo, hơn thế nữa ông còn tự ký tên là Đại Khánh Pháp Vương. Các quan viên Bộ Lễ sau khi tiếp chỉ, giả vờ như có điều khó hiểu quay trở lại tâu với Võ Tông rằng, người thế nào là "Đại Khánh Pháp Vương, dám cùng với Hoàng Đế ký vào thánh chỉ, đó là tội bất kính rất lớn". Đối với việc cố tình giả vờ không hiểu để gây khó khăn của các quan viên Bộ Lễ này, Võ Tông cũng không biết làm thế nào, ông giở khóc giở cười, việc ban ruộng đất cho các tăng sỹ coi như chấm dứt.

Như trên đã từng nói Minh Thái Tổ ra sức khôi phục Phật giáo truyền thống của người Hán. Nhưng trên thực tế ông vẫn dành cho Lạt Ma Giáo một địa vị xứng đáng. Năm Hồng Võ thứ 6 (năm 1373), vị Đế Sư của Triều Nguyễn trước đây tên là Nam Già Ba Tạng Bốc vào Triều Đình, Minh Thái Tổ liền ban cho ngài danh hiệu là: "Xí Thịnh Phật Bảo Quốc Sư". Vào năm sau, cháu của ngài Bát Tư Ba tên là Công Ca Giám Tạng Ba Tạng Bốc vào Triều Đình cũng được tôn làm Đế Sư, ban thêm hiệu là Quốc Sư. Thời Minh Thái Tổ còn thiết lập chức năng Cương Ty ở Tây Ninh, cử Lạt Ma Tam Thích làm Đô Cương để quản lý Lạt Ma giáo ở vùng này. Minh Thái Tổ còn cho thiết lập "Phiên Hán Nhị Tăng Ty" ở Cam Túc, Hà Châu, cho Tạng tăng giữ chức Tăng Quan để quản lý Lạt Ma giáo.

Các biện pháp trên đây đều kèm theo mục đích chính trị rất rõ rệt, tức là để bảo vệ thời duy trì sự thống nhất và đoàn kết dân tộc trên đất nước Trung Quốc. Sau khi Minh Thành Tổ Chu Đệ lên ngôi, thủ lĩnh của phái Hoàng giáo trong Lạt Ma giáo tên là Tông Ca Ba hoằng dương Phật pháp, tên tuổi được lưu truyền ở Tây Tạng, Minh Thành Tổ Chu Đệ liền cử người đến đón ngài vào Hoàng Cung, ngài Tông Ca Ba liền cử đệ tử thứ nhất của mình là vị tăng Thích Ca Trí theo sứ giả về kinh. Minh Thành Tổ liền ban cho danh hiệu là Đại Từ Pháp Vương. Thời kỳ Minh Thần Tông, ngài Yểm Đáp Khả Hãm của Mông Cổ vào Thanh Hải của Trung Quốc, nghe tin vị Đạt Lai đời thứ 3 là Toả Nam Gia thế đến vùng phụ cận Tây Ninh Hoằng Dương Phật Pháp, ngài liền dẫn một đoàn hàng vạn người ra nghênh đón đồng thời tôn xưng ngài Toả Nam Gia Thế danh hiệu "Đạt Lai Lạt Ma Bạch Gia Đạt Nhiên". Đó là điểm mở đầu của tên gọi "Đạt Lai Lạt Ma" từ "Đạt Lai" có nghĩa là Đại Hải (biển lớn), từ "Lạt Ma" có nghĩa là Thượng Sư (người thầy). Còn cụm từ "Bạch Gia Đạt Nhiên" có nghĩa là giữ Kim Cương. Ngài Toả Nam Gia Thế đã từng viết thư lên Tể Tướng của nhà Minh là Trương Cư Chính, đồng thời ngài cũng dâng hiến lên Tể Tướng tượng Bồ Tát Quán Âm. Vào năm Vạn Lịch thứ 16 (năm 1588), Lương Thần Tông cử người đi đón bằng được Đạt Lai đời thứ 3 đến Bắc Kinh, nhưng tiếc rằng ngài Đạt La đời thứ 3 đã viên tịch ở vùng Nội Mông nên việc không thành. Nói tóm lại trong suốt đời Minh, Lạt Ma giáo chỉ lưu hành ở vùng dân tộc Tây Tạng, dân tộc nội Mông và một số vùng dân tộc thiểu số khác. Nhưng đó cũng là một bộ phận không thể thiếu được của Phật giáo Trung Quốc, vào thời Minh, Lạt Ma giáo được phát triển mạnh hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu, đồng thời nó bắt đầu hình thành chế độ chính giáo hợp nhất trong vùng Tây Tạng, những đều này ảnh hưởng trực tiếp tín ngưỡng tôn giáo của Triều Thanh.

Vương Chi Bình




Có phản hồi đến “19. Chu Nguyên Chương Xuất Thân Là Hòa Thượng - Việc Hộ Pháp Cũng Là Quốc Sự”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com