Mục Lục

Sư Anando là nhà Sư Nam tông đệ tử của Đức Tăng Thống Giới Nghiêm suốt quá trình theo Thầy học đạo rất tinh tấn, năm 1966 Sư đi du học Tích Lan, Nhật Bản đến 5 năm sau trở về Việt Nam, đến cầu pháp với Đức tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, dạy pháp tu niệm Phật A Di Đà với pháp "thiền niệm" làm cho ý trần vong bặt, pháp trần vọng niệm không sanh, phát khởi lòng từ bi thương xót muôn loài. Sư thường xuyên thực tập pháp nầy và có đến Singapore, Malaya, Nhật Bản thuyết pháp. Năm 1973, Sư được phép và thường xuyên đến Tịnh thất Bảo Tịnh của Sư Giác Quang tại Quan Âm Tu Viện để cùng đàm luận đạo mầu về lý duyên sanh và giáo lý Tịnh độ tông theo ý tưởng Tịnh độ Non Bồng.

Năm 1999 đến 2001, tức là với thời gian 03 năm phát nguyện sư Anando về Tổ Đình Linh Sơn, núi Dinh an tọa Am Bửu Châu dưới chân núi, được sự hộ trì của Ni Trưởng Huệ Giác, Trưởng Tông Phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, Sư tu hành rất tinh tấn. Với quyển Tịnh Độ Thiền do Sư biên soạn để làm kim chỉ nam trong quá trình kết thất của mình.

Sự kết hợp Thiền Nam tông, Niệm Phật Tịnh Độ tông, có cả Mật tông được Sư nghiêm trì hành đạo rất tinh chuyên cho đến khi viên tịch cũng tại chốn non xanh cẩm tú nầy.

Nay sau khi biên soạn quyển Thiền Tịnh song tu sắp xong, chợt nhớ ra trong Thư Viện Non Bồng có quyền Tịnh Độ Thiền của Sư, tôi vội lấy ra giảo nghiệm thấy có lực niệm và hiệu quả cao, lời văn và ý tưởng của Sư thuộc văn phong của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng thiện hạ Phước; chúng tôi nhận thấy đây là gia bảo, nên cho Thị giả đưa vào quyển sách Thiền Tịnh song tu để làm đề tài thực tập cho những người mới phát tâm tu hành.

Khóa lễ Tịnh Độ Thiền:

Tịnh pháp giới:

Om răm – (Om ram) (7 biến)

Nguyện Hương

Nam mô bổn sư Thích Ca Mu Ni Như Lai (3 lần)

Khói hương lan tỏa khắp

Thấu suốt cả ba cỏi

Năm uẩn đều thanh tịnh

Ba độc tự lặng yên

Om Đha-Rờ-Má Sú-Đha Gá Tê Sờ-Va Ha (3 biến)

(Om Dharma Suddhă Gate Svahă)

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn đời giữ Đạo

Theo Tự Tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sanh

Cầu Phật từ bi hộ

Tâm Bồ Đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ Giác

Nam mô hương cúng dường Bồ Tát ma ha tát (3 biến)

Trong tam giới không có gì tôn quý hơn ba ngôi báu: Phật Pháp Tăng. Nay con xin Quy Y và nương về Tam Bảo.

Nguyện xin Tam Bảo thường Gia Bị

Nguyện xin Bổn Tôn thường Nhiếp Thọ

Nguyện xin chư vị Hộ Pháp thường Ủng Hộ

Nam Mô Gú Rú Phí-giắc

Nam Mô Bú-đha-gía

Nam Mô Đha-rờ-ma-gía

Nam Mô Săng-gha-gía (3 lần)

(Namo Guru Phyah

Namo Buddhaya

Namo Dharmaya

Namo Sanghaya)

Kính lạy đấng Đạo Sư

Con nguyện xin:

Tự Quy Y Phật Bảo

Tự Quy Y Pháp Bảo

Tự Quy Y Tăng bảo (3 lần)

Sau khi Quy Y Phật Bảo, xin Nguyện cho con Dứt Trừ Nghiệp Chướng từ bao đời nay. Nương thừa Từ Bi Lực của chư Phật mười phương Nguyện cho con được Tội Diệt Phước Sinh, Chấm Dứt Sanh Tử Luân Hồi. (1 lạy)

Sau khi Quy Y Pháp Bảo, xin Nguyện cho con thường gặp Chánh Pháp, luôn Tu Tập được Chánh Pháp và Giải Thoát Trong Đời Hiện Tại. (1 lạy)

Sau khi Quy Y Tăng Bảo, xin Nguyện cho con thường gặp các Bậc Đạo Sư Chân Chánh. (1 lạy)

Thọ Trì Ngũ Giới:

Con Nguyện xin Thọ và Suốt Đời Giữ Ngũ Giới:

1. Không sát sanh

2. Không trộm cắp

3. Không tà dâm

4. Không nói dối

5. Không uống rượu

Phát Nguyện Bồ-đề Tâm:

Đệ tử Pháp Danh ......... xin Nguyện từ thân này đến khi thành tựu Chánh Đẳng Giác nơi Bồ-đề Đạo Tràng Vô Thượng xin:

Tự Quy Y Ba Thân Vô Thượng của chư Như Lai

Tự Quy Y Pháp Tạng Phương Quảng Đại Thừa

Tự Quy Y tất cả Bồ Tát Tăng Không Thoái Chuyển

Ngũ Hoằng Thệ Nguyện:

Chúng Sanh vô biên thề nguyện độ

Phật Pháp vô lượng thề nguyện học

Phiền Não vô tận thề nguyện đoạn

Chánh Giác vô thượng thệ nguyện thành

Như Lai vô biên thề nguyện sự. (3 lần)

Cúi xin Mười Phương chư Phật, chư Đại Bồ Tát Chứng Biết và Hộ Trì cho con.

An Địa Thiên Chân Ngôn:

Ná Mắc Sá Măn Tá Bú-đha Năn Om Prờ-thí Ví Yê Sơ-va Ha (3 biến)

(Namah Samanta Buddhănam Om Prthiviye Svahă)

Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn:

Om Sa-rờ-vá Phá vá Sú-đha,Sa-rờ-vá Đha-rờ-má, Sa-rờ-vá Phá vá Sú-đhô Hăm (3 biến)

(Om Sarva Bhava Suddhă Sarva Dharma Sarva Bhava Suddho Hăm)

Ngũ Bộ Chú:

Om Răm, Om Trờ-hí-yim, Om Ma Ni Pách Mê Hùm,

Om Chá Lê Chô Lê Chum Đê Sơ-va Ha. Phờ-rum. (7 biến)

(Om Răm, Om Trhyim, Om Mani Padme Hum,

Om Chale Chole Chumde Svaha, Bhrum.)

Phổ Cúng Dường Chân Ngôn:

Om Gá Gá Ná Sâm Phá Vá Vắc-jra Hộc. (3 biến)

(Om Gagana Sambhava Vajra Hoh.)

Sám Hối Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn:

Nay con xin Sám Hối tội xưa

Bởi Vô Minh con đã tích chứa

Biết bao tội lỗi Thân, Ý, Nghiệp

Tham Dục, Sân, Si che Bản Tâm

Ở nơi Phật Pháp Thánh Hiền Tăng

Cha Mẹ, Đạo Sư với Bạn Lành

Cũng như vô lượng ức chúng sanh

Luân chuyển chìm trong dòng sanh tử

Lầm lỡ tạo nên bao tội nặng

Nay con ở trước Mười Phương Phật

Xin Sám Hối, Nguyện Không Tái Phạm

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam Mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Thi Khí Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Tỳ Xá Phu Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Câu Lưu Tôn Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Ca Diếp Như lai (1 lạy)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mu Ni Như Lai (1 lạy)

Ri Phá Ri Phá Tê, Ku Há Ku Há Tê Tra Ní Tê Ní Gá Lá Rí Tê Ví Ma Rí Tê Sờ-va Ha. (Ribha Ribhate Kuha Kuhate Tranite Nigalarite Vimarite Svaha.)

Đảnh Lễ:

Nam mô chí tâm đảnh lễ: Tận hư không biến pháp giới Phật, Pháp, Tăng Thường Trụ Tam Bảo (3 lạy)

Nam mô chí tâm đảnh lễ: Tây Phương Cực Lạc Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai (3 lạy)

Nam mô Quán Thế Âm Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Di Lạc Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Hư Không tạng Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Phổ Hiền Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Kim Cang Thủ Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Trừ Cái Chướng Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Địa Tạng Vương Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Đại Thế Chí Đại Bồ Tát (1 lạy)

Thập Cam Lồ A Di Đà Đại Chân Ngôn

Cũng gọi là

Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn:

Nam Mô Rách-na Trá Ya Ya, Ná Mắc A Rí Ya Mi Tá Pha Yá Tá Tha Gá Ta Ya Rờ Há Tê, Sâm Yắc Sâm Bú Đha Yá, Tá Ýa Tha:

Om Âm-rờ Tê, Âm-rờ Tốp Phá Vê, Âm-rờ Ta Sâm Phá Vê, Âm-rờ Ta Gá Phê, Âm-rờ Ta Sí Tê, Âm-rờ Ta Tê Jê, Âm-rờ Ta Ví Rim Tê, Âm-rờ Ta Ví Rim Tá Gá Mí Nê, Âm-rờ Ta Gá Gá Ná Hí Tí Ka Rê, Âm-rờ Ta Đum Đú Tê Sờ-varê, Sa-rờ Vá Thá Sách Thá Nê, Sa-rờ Vá Ka-rờ Má Krăm Sắc Sá Yăm Ká Rê Sờ-va Ha.

(Namo Ratna Trayaya Namah Aryamitaphaya Tathagatayarhate Samyah Sambuddhaya Tadyatha:

Om Amrte Amrtobbhave Amrta Sambhave Amrta Garbhe Amrta Site Amrta Teje Amrta Vihrimte Amrta Vihrimta Gamine Amrta Gagana Hitikare Amrta Dumdute Svare Sarvatha Sathane Sarva Karma Kram Saksayăm Kare Svaha.) (21 biến)

Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Đắc Vãng Sanh Tịnh Độ Chân Ngôn

Nam Mô A Mi Tá Phí Ya Tá Tha Gá Ta Yá Tá Yá Tá Yá Tha:

Âm-rờ Tốp Phá Vê, Âm-rờ Ta Sâm Phá Vê, Âm-rờ Ta Ví Kranh Tê, Âm-rờ Ta Ví Kranh Tá Gâm Ní Gá Gá Na Kí Tắc Kờ-lê Sờ-va Ha. (24 biến)

(Namo Amitabhya Tathagataya Tadyatha:

Amrtobbhave Amrta Sambhave Amrta Vikrante Amrta Vikranta Gamni Gagana Kitakle Svaha.)

Cữu Tự A Di Đà Tâm Chân Ngôn:

Om Âm-rờ Ta Tê Jê Yá Răm Hùm Hờ-rịch (108 biến)

(Om Amrta Teje Yarăm Hum Hrih)

Phát Nguyện Vãng Sanh:

Nay con Pháp danh ………… Phát Bồ Đề Tâm, một lòng quy mệnh Đức A Di Đà Như Lai, tha thiết nguyện cầu được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc Quốc. Nhớ lúc xưa Giáo Chủ Tịnh Độ Tây Phương A Di Đà có lập thệ rằng:

“Nếu chúng sanh nào muốn về nước ta, chỉ cần chí thành xướng niệm danh hiệu ta liên tục mười niệm, nếu chẳng được vãng sanh, ta thề không thành Phật”.

Tin chắc vào lời đại thệ của Đức A Di Đà Như Lai, nương nhờ Phật lực từ bi, con xin được tội diệt, phước sanh, dứt trừ mọi chướng ngại, nguyện trước khi lâm chung con biết trước ngày giờ, được Phật và chư vị Thánh Chúng tiếp dẫn vãng sanh, mau ngộ Phật thừa, độ khắp muôn loài.

Nam Mô A Di Đà Phật (108 biến)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (21 biến)

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (21 biến)

Nam Mô Phổ Hiền Bồ Tát (21biến)

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (21 biến)

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (21 biến)

Chân ngôn làm tăng công đức trì niệm:

Om sâm phá ra, Sâm phá ra, ví má ná ksa ra, ma ha vắc jra hùm, om sờ ma ra ví má nás ka ra ma ha vắc jra hùm. (7 biến)

(Om sambhara sambhara vimanaskara maha vajra hum. Om smara smara vimanaskara ma ha vajra hum)

Hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Tiêu trừ nghiệp xưa nay

Tăng trưởng các phước huệ

Viên thành căn thắng thiện

Bao nhiêu kiếp đao binh

Cùng với nạn đói khát

Đều diệt sạch không còn

Quyến thuộc nay an lạc

Oan gia về Tịnh Độ

Mưa gió thường hòa thuận

Nhân dân hằng khang ninh

Pháp giới các hàm thức

Đồng chứng đạo vô thượng

Bổ khuyết chân ngôn:

Om hú rú hú rú yá rê múc khê sờ-va ha (7 biến) (Om dhuru dhuru yare mukkhe svaha)

Lễ văn

Trì tụng công đức thù thắng hạnh

Vô biến thắng phước đều hồi hướng

Nguyện khắp chúng sanh đang chìm đắm

Mau lìa khổ não chứng Bồ Đề.

Nam Mô Thập Phương Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo (3 lần, 9 lạy)

(Đánh 9 tiếng chuông, lễ lạy rồi nghĩ).

Thời khóa công phu:

Dành cho 2 hạng Hành Giả:

1. Hành Giả Chuyên Tu Tịnh Độ Thiền

2. Hành Giả Nhập Thất

Hành Giả Chuyên Tu Tịnh Độ Thiền thì nên trường chay hay ít nhất 10 ngày chay và mỗi ngày 2 thời khóa sáng tối.

Mỗi thời khóa:

Trì niệm Chân Ngôn Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng 24 – 108 biến

Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn 21 biến

A Di Đà Tâm Chân Ngôn 108 biến

Lục tự Nam Mô A Di Đà Phật :

Niệm lục tự A Di Đà

Không cần dùng chuỗi, chỉ cần lắng nghe rõ từng chữ lúc đang niệm mới là điều quan trọng. Vì thế có thể ngồi niệm từ 30 phút đến 1 giờ, 2 giờ… tùy sức!

Niệm ra tiếng lớn, nhỏ, hay niệm thầm đều được.

Nên nhớ không được niệm nhanh!

Tư thế ngồi có thể là bán già hay kiết già.

Ngoài thời khóa công phu mỗi ngày hãy thường niệm liên tục lục tự Di Đà trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi và tâm phải chú nghe từng chữ đang niệm, để tự tâm trong sáng dần không còn bị vọng niệm quấy nhiễu nữa.

Nếu Hành Giả nhập thất (7, 21, 49, 100 ngày, 1 năm…):

Bắt buộc ăn chay trong suốt thời gian nhập thất.

Cần chia 4 hay 6 thời mỗi ngày tùy theo sức khỏe và dành nhiều thì giờ ngồi thiền niệm lục tự A Di Đà.

Công dụng bất khả tư nghì của chân ngôn

Tại pháp hội núi Linh Thứu, Đức Quán Thế Âm Đại Bồ Tát bước ra trước Phật bạch rằng:

Nay con nương Phật uy của đức A Di Đà Như Lai mà ban cho chúng sanh quyết chí niệm Phật thời mạt pháp một chân ngôn gọi là Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn. Đây là tạng Pháp bí mật, ẩn chứa vô biên Phật lực tự tại của Đức A Di Đà Như Lai:

Nếu hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hoặc Thiện Nam, Tín Nữ lỡ phạm giới căn bản tụng xong 7 biến liền trở lại giới phẩm thanh tịnh.

Tụng 21 biến tiêu diệt các tội tứ trọng, ngũ nghịch đại tội, thập ác và tất cả các chướng ngại trên bước đường tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi được sự nhiếp thọ của vô lượng Như Lai.

Tụng một muôn biến tâm Bồ Đề hiển hiện nơi tâm không quên mất, thấy đức Phật phóng quang trên đảnh đầu. Người niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẽ, tiêu tan tất cả phiền não.

Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền thấy Phật A Di Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ Tát vây quanh, an ủi, tiếp dẫn: người niệm Phật tức khắc được vãng sanh về thượng phẩm ở Cực Lạc Quốc.

Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng:

Thưa Thế Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm nên thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật chân ngôn gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Vãng Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới.

Người niệm Phật phải ăn chay và giữ ít nhất ngũ giới, thân khẩu ý đều phải thanh khiết.

Ngày đêm 6 thời, mỗi thời tụng 24 biến.

Như vậy sẽ diệt được các tội: tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng chánh pháp, diệt trừ được hết sự nhiễu hại của các loại ma quỷ thần v.v…

Thường được đức Di Đà phóng quang trên đảnh đầu.

Hiện đời an ổn, phước lạc.

Hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sanh Cực Lạc Quốc.

Công năng của A Di Đà Tâm Chân Ngôn

Thường xuyên tụng niệm được tăng trưởng phước đức, tăng ích trí huệ, biện tài vô ngại, thọ mạng và sức lực lâu dài. Tiêu trừ chướng nghiệp, tiêu diệt vạn bệnh… từ bi ái ngữ tăng trưởng, mọi sự đều tốt đẹp.

Vĩnh viễn thoát khỏi nhà lửa tam giới.

Người trì niệm sẽ được vãng sanh vào hàng thượng phẩm thượng sanh.

Đây là tâm chú bí mật của đức A Di Đà Như Lai.

Điều kiện khẩn yếu:

Người hành trì pháp môn Tịnh Độ Thiền phải giữ chắc 3 điều kiện cơ bản vô cùng cần thiết là Tín – Nguyện – Hạnh:

TÍN :

Đức Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng tức kiến Như Lai”.

Nghĩa là : “Tất cả đối tượng cũng như cảnh giới bị lục căn nhận biết đều là huyễn hóa không thật có. Nếu thấy rõ tất cả tướng đều là hư huyễn tức chứng được bản thể chân như tự tánh vậy!”

Nên đối với hết thảy chúng sanh chưa giải thoát sinh tử, tức chưa chứng tánh thì mọi cảnh giới huyễn hóa luân hồi đang trả quả đều chấp là thực có cả!

Lúc chưa chứng thánh, vì nghiệp lực, chúng ta vẫn thấy cảnh Nam Diêm Phù Đề ở cõi Ta Bà này là nghiệp luân hồi trầm luân!

Bởi thế, hiện kiếp này cần phải tin chắc Tây Phương Tịnh Độ cũng có thật nơi tự tánh của mỗi một chúng sanh vốn trùm khắp pháp giới. Nên chỉ cần chí thành niệm danh hiệu đức A Di Đà cầu vãng sanh về Cực Lạc Quốc thì chắc chắn có cảm ứng. Mặc dù uế độ như cõi Ta Bà này hay Tịnh Độ như cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của đức A Di Đà Như Lai cũng đều huyễn hóa vọng hiện nơi chân tánh mỗi chúng sanh, nhưng nương cảnh Tịnh Độ huyễn hóa kia, tu tiến dễ chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bất Thoái Chuyển Bồ Tát và Thành Tựu Phật Quả hơn nhiều, mà không sợ bị đọa lạc vào các đường ác đạo! Đó là nhờ Phật lực của Đức A Di Đà Như Lai gia bị vậy!

NGUYỆN :

Trong mỗi thời khóa công phu trì niệm rất cần nguyện cầu được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ của đức A Di Đà Như Lai.

HẠNH :

Cần hiếu thảo với cha mẹ, đáp ơn thầy tổ và thực hành Thập Thiện Hạnh là 10 hạnh lành gồm có :

03 nghiệp Thân:

Không sát sanh – nên phóng sanh

Không trộm cắp – nên bố thí

Không tà dâm – nên tránh xa sắc dục

4 nghiệp khẩu:

Không vọng ngữ – nên nói lời chân thật

Không ỷ ngữ – nên nói lời khiêm cung

Không đâm thọc – nên nói hòa giải

Không ác khẩu – nên nói dịu dàng

03 nghiệp ý:

Không tham – nên làm lợi sanh

Không sân – nên từ bi tha thứ

Không si – nên sáng suốt phân biệt tà chánh, đúng sai, phải quấy

Sư Đại Đức Anando đã viên tịch vào ngày.......tháng.......năm 2002, thọ 58 tuổi, 10 năm tu theo hệ thống Nam tông, 30 năm tu theo hệ thống đại thừa, phát tâm niệm Phật. Sư để lại một gia tài thật quý báu cho người sau của Sư là quyển Tịnh Độ Thiền vô giá nầy, Sư có nhắn gởi là giao cho Sư Giác Quang để lưu lại trong đời về công đức tu của Sư. Nay soạn giả làm được việc mà Sư Anando ước nguyện, Với công đức vô biên xin hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh, đồng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, đồng thành Phật đạo (HT Thích Giác Quang)

HT  Thích Giác Quang




Có phản hồi đến “Ý Tưởng Tịnh Độ Thiền Của Sư Anando ”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com