Mục Lục

7. 1. Cõi Tịnh độ theo kinh Duy Ma Cật:

Khi bàn về cõi Tịnh độ, Duy Ma Cật nói: "Này Bảo Tích, Ông nên biết! Trực tâm là Tịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không dua nịnh sanh sang nước đó.

Thâm tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó.

Bồ đề tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh có tâm Đại thừa sanh sang nước đó.

Bố thí là Tịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả tài sản sanh sang nước đó.

Trì giới là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành, hạnh nguyện đầy đủ sanh sang nước đó.

Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt trang nghiêm sanh sang nước đó.

Tinh tiến là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang nước đó.

Thiền định là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp, tâm chẳng tán loạn sanh sang nước đó.

Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được trí tuệ sanh sang nước đó.

Tứ vô lượng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả sanh sang nước đó.

Tứ nhiếp pháp là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó.

Phương tiện là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng phương tiện, không bị trở ngại sanh sang nước đó.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 8 thánh đạo sanh sang nước đó.

Hồi hướng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được cõi nước đầy đủ tất cả công đức.

Nói pháp trừ tám nạn là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có 3 đường ác và tám nạn.

Tự mình giữ giới hạnh không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có sự hủy phạm giới cấm.

Mười điều lành là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu có, phạm hạnh, lời nói chắc thật, giọng nói dịu dàng, quyến thuộc không chia rẽ, khéo hòa giải việc tranh chấp, kiện tụng, nói lời có ích, không giận, không ghét, thấy biết chân chánh; tất cả các chúng sanh ấy sanh sang nước đó.

Cho nên, này Bảo Tích, Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm được thanh tịnh; tùy chỗ tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh.

7. 2. Bồ Đề Đạt Ma nói về Tây phương Tịnh độ:

Phật ở trong tâm như trầm hương ở trong cây, phiền não nếu hết thì Phật theo tâm hiện ra, vỏ mục nếu hết thì hương theo cây tỏa ra. Nên biết ngoài cây không có hương, ấy là hương ngoài của cây khác. Nếu ngoài tâm có Phật, ấy là Phật ngoài của ai khác.

Trong tâm có 3 độc, đó gọi là quốc độ dơ bẩn. Trong tâm không có 3 độc, đó gọi là quốc độ thanh tịnh. Kinh nói: "Nếu khiến chi quốc độ vẫn đục, dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ trong đó xuất hiện, thì điều đó không thể nào có được. Cái vẩn đục dơ xấu ấy, tức là3 độc vô minh vậy. Chư Phật Thế Tôn ấy, tức là tâm thanh tịnh giác ngộ vậy". (Thiếu Thất Lục Môn, tr. 64).

Hỏi: Như lời kinh nói: "dốc lòng niệm Phật chắc được vãng sanh qua cõi Tịnh độ Tây phương", chỉ cần theo một cửa ấy tức được thành Phật, sao còn nói quán tâm để cầu giải thoát làm gì?

Đáp: Phàm nói niệm Phật, cốt cần niệm chánh, rõ nghĩa là chánh, không rõ nghĩa là tà. Niệm chánh chắc được vãng sanh; còn niệm tà thì sao qua đó được?

Phật là giác, tức tỉnh thức vậy: Tỉnh thức để thấy rõ thân tâm mình, đừng khiến niệm dữ lừng lên. Nói niệm tức ghi nhớ vậy: Ghi nhớ giữ giới hạnh, chẳng quên tinh tấn. Có hiểu như vậy mới gọi là niệm. Cho nên niệm cốt ở tâm, chẳng ở lời nói. Phải biết:

Mượn nôm bắt cá, được cá phải quên nôm.

Mượn lời cầu ý, được ý phải quên lời.

Đã xưng niệm Phật trên danh từ

Nên biết niệm Phật trong đạo lý.

Nếu tâm không thực thì miệng tụng tiếng suông, 3 độc chất chồng, nhân ngã chèn lấp, làm sao thấy Phật?

Đem tâm vô minh hướng ngoài cầu Phật, chỉ nhọc sức nào có ích gì ?

Nên biết chư Thánh ngày xưa tu niệm Phật, phải đâu nói ngoài miệng, chính là tìm xét trong tâm. (sđd, tr.42)

7. 3 . Tịnh độ Thiền của Đức Huệ Năng:

Một ngày kia, Vi Thứ Sữ có thiết một tiệc chay lớn mà đãi Đại Sư. Khi mãn tiệc, Thứ Sữ thỉnh Sư lên tòa giảng, rồi cùng các viên quan, chức sắc, học trò, và dân chúng đồng trang nghiêm đến làm lễ Đại Sư một lần nữa mà hỏi rằng: “Đệ tử nghe Hòa Thượng nói pháp (lý nghĩa thâm diệu), thiệt không thể nghĩ suy và bàn nghị được. Nay có một chút nghi, xin Đại Từ Bi vì đệ tử mà giải rõ.”

Sư nói: “Có điều nào nghi thì hỏi, ta giải cho.”

Vi Thứ Sử bạch: “Đệ tử có nghe Đức Đạt Ma lúc ban sơ hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi rằng: “Trẫm trọn đời cất chùa, độ tăng, đãi chay làm phước, có công đức gì ?” Đức Đạt Ma nói: “Thiệt không có công đức.” Đệ tử chưa hiểu thấu lẽ ấy, xin Hòa Thượng giải cho.

Sư nói: “Thiệt không có công đức. Chớ nghi lời của Thánh nhơn đời trước. Võ Đế lòng tà, không biết chánh pháp. Cất chùa độ tăng, đãi chay làm phước, ấy gọi là cầu phước, không thể lấy phước mà kể là công đức được. Công Đức ở trong Pháp Thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước.

Sư lại nói: “ Thấy tánh là công, giữ lòng bình đẳng là đức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy Bổn Tánh, động tịnh tự nhiên, diệu dụng chơn thật. Ấy gọi là công đức. Bên trong, giữ lòng khiêm hạ là công, bên ngoài hành động theo lễ là đức. Tánh mình lập ra muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm trần là đức. Muốn tìm cái công đức Pháp Thân, thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới là thiệt có công đức. Người tu công đức, thì lòng chẳng nên khinh dễ người, mà phải thường cung kỉnh khắp cả nhơn vật. Nếu lòng thường khinh dễ người, thì bổn ngã của ta chẳng dứt, tức là mình không có công. Tánh mình giả dối, không chơn thật, tức là mình không có đức. Bởi bổn ngã của ta tự đại, nên thường khinh dễ cả thảy nhơn vật.

Chư Thiện tri thức, niệm niệm thấy tánh không rời là công, lòng giữ công bình chánh trực là đức. Tự giồi tánh mình là công, tự trau thân mình là đức.

Chư Thiện tri thức, công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí (làm phước). Bởi vậy, phước đức với công đức là khác nhau. Vua Võ Đế không biết Chơn Lý, chớ chẳng phải tại Tổ Sư ta lầm.

Thứ Sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy các thầy tăng và người tục niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Tây Phương, xin Hòa thượng giải rõ cho biết các người ấy được vãng sanh về Tây Phương chăng? Xin Ngài phá chỗ nghi này.”

Sư nói: “Sữ quân, hãy nghe cho kỹ, Huệ Năng nầy giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn hóa độ vào cõi Tây Phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm thì có mười muôn tám ngàn, tức chỉ mười điều ác (1. Giết hại sanh mạng, 2- Trộm cắp, 3- Tà dâm, 4-Nói dối, 5- Nói xúi dục hai đàng, 6-Nói hung ác, 7-Nói thêu dệt, tục tỉu, 8- Tham lam, 9-Giận hờn, 10-Si mê), và tám điều tà trong thân (1-Tà kiến: Thấy hiểu tà vạy, 2-Tà tư duy: Nghĩ ngợi điều tà vạy, 3-Tà ngữ: Nói tà vạy, 4-Tà nghiệp: Tạo nghiệp tà vạy, 5-Tà mạng: nuôi dưỡng mạng sống của mình bằng các nghề tà vạy như làm thuốc độc, đánh mướn, làm võ khí, v.v, 6-Tà phương tiện: Làm phương tiện tà vạy, 7-Tà niệm: Suy gẫm tà vạy, 8-Tà Định: Thiền định tà vạy, không trúng chánh pháp). Thế mới là nói xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí. Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh mê ngộ khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh.

Sử quân, người Đông phương mà tâm tịnh, thì không có tội. Còn tuy là người Tây Phương mà tâm không tịnh thì cũng có tội. Người Đông phương tạo tội cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, còn người Tây Phương tạo tội cầu vãng sanh về xứ nào? Người phàm mê muội chẳng tỏ tánh mình, không biết cõi Tịnh Độ trong thân, nên mới nguyện Đông nguyện Tây. Còn người giác ngộ dầu ở chỗ nào, tâm địa cũng một mực thanh tịnh tự nhiên. Sở dĩ Phật nói: Tùy cái chỗ trụ mà tâm thường được an lạc.

Sử quân, nếu tâm địa của mình trọn lành, thì cõi Tây Phương cách đây chẳng xa. Bằng mình cưu mang cái tâm chẳng lành mà niệm Phật cầu vãng sanh, thì ắt khó đến cõi ấy.

Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình chánh trực, thì đến cõi ấy mau như khẩy móng tay, liền thấy Phật Di Đà.

Sử quân, làm mười điều thiện, thì cần gì phải nguyện vãng sanh ! Còn nếu chẳng dứt lòng cưu mang mười điều ác, thì Phật nào tới rước mình! Nếu hiểu rõ pháp Vô Sanh Đốn Pháp, thì trong một sát na ắt thấy cõi Tây Phương. Bằng chẳng hiểu rõ pháp ấy, mà cứ niệm Phật cầu vãng sanh thì đường xa vòi vọi, thế nào đặng đi tới cõi ấy. Để Huệ Năng nầy dời cõi Tây Phương trong một sát na cho các vị thấy liền trước mắt, các vị muốn thấy chăng?”

Chúng nhơn đều đảnh lễ đáp rằng: “Nếu thấy cõi ấy, thì cần gì phải nguyện vãng sanh! Xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho mọi người đặng thấy.”

Sư nói: “Đại chúng, người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành, con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm. Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật.

Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh tức là Thích Ca, lòng bình trực tức là Di Đà.

Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy (tham dục) là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh.

Chư Thiện tri thức, thường làm mười điều thiện, thì Thiên Đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã, thì núi Tu Di xập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt... Tu được như thế, thì các Giác Tánh Như Lai ở trong tâm địa mình phóng đại quang minh, soi sáu cửa ngoài trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục Dục (Lục Dục Thiên là: Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Da Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên), lại trong soi tánh mình, làm cho ba độc (tham, sân, si) liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần, trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây Phương. Nếu chẳng tu các hạnh ấy, thì thế nào đến cõi Tây Phương được.”

Đại chúng nghe nói, thấy tánh rõ ràng. Tất cả đều làm lễ, khen thiệt hay, và xướng lên rằng: “Nguyện khắp chúng sanh trong Pháp giới nghe rồi, liền được tỏ hiểu.”

Sư nói: “Thiện tri thức, muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Ở nhà mà thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở chùa mà chẳng tu, thì cũng như người Tây Phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch, thì tánh mình tức là Tây Phương vậy.”

Vi Thứ Sử lại hỏi: “Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại Sư chỉ dạy.”

Sư nói: “Ta nói cho đại chúng một bài kệ “Không tướng” (vô tướng). Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác. Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì !”

Tụng rằng:

Lòng bình đẳng, chẳng đợi giữ giới

Làm việc ngay, chẳng đợi tu thiền

Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên

Nghĩa huynh đệ, dưới trên tương ái

Nhượng hòa mục, tôn ti đối đãi

Nhẫn muôn điều, ác nghiệp tất tan

Nếu bền tu, như cựa gỗ, lửa lên

Nơi bùn lấm, nở đầy sen đỏ

Đắng miệng đó thuốc trừ bệnh khổ

Nghịch tai là lời thật, chánh trung

Sửa lỗi lầm, trí huệ phát sung

Bưng dấu lỗi, ấy lòng bất thiện

Phải hàng ngày, chuyên làm việc thiện

Phật Đạo nào bạc thí đặng nên?

Tâm Bồ Đề, trong kiếm mới nên

Ngoài cầu kiếm, nhọc lao, sái Đạo

Nghe chánh pháp, cứ theo tu tập

Cảnh Tịnh liền ngay mắt thấy liền.

Tổ lại nói: “Chư Thiện tri thức! Cả thảy phải y theo bài kệ này mà tu hành và tự thấy tánh mình, thì chắc thành Phật Đạo. Pháp chẳng đợi chờ, các người hãy giải tán, ta về Tào Khê. Nếu có điều chi nghi ngờ, thì hãy đến đó mà hỏi.”

Bấy giờ, Vi Thứ Sử cùng các thiện nam tín nữ tại hội, tâm tánh đều đặng mở mang tỏ sáng. Cả thảy đồng cung kính và vâng theo lời dạy.

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Tịnh Độ Qua Cách Lý Giải Của Thiền”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com