Chú Tư Nhiên:

Mùa thu, ngày 15 tháng 7 năm 1954, Chú Tư Đàm Hữu Nhiên, tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp, từ chiến khu về thăm Ba; tôi còn nhớ rõ hình ảnh mãnh khãnh của Chú, oai phong quá với sĩ khí hào hùng Chú đến từ giả Ba để đi tập kết ra Bắc. Ba ôm chú vào lòng, nói:”rán nghe chú, làm việc cho nên danh nên phận nghe chú, đừng bỏ cuộc đầu hàng nghe chú…”.

Tôi chỉ biết chú Tư đi kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Chú là em ruột của Ba và từ đó cho đến nay tôi mới gặp lại Chú ngày 20 tháng 12 năm 2012.

Xin nói một ít về Chú. Chú Tư Đàm Hữu Nhiên, tham gia Cách mạng đổi danh tánh Nguyễn Hữu Nhiên tự Ánh, tập kết ra Bắc, đóng quân tại Thanh Hóa, lập gia đình cũng tại Thanh Hóa. Chú được Chính phủ lo cho ăn học tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp, làm Giám đốc Trường Nông Lâm nghiệp Tam Điệp -Nam Định. Đến ngày hòa bình 30/4/1975, Chú về tại Long Định làm Giám đốc Nông trường Long Định, sau làm Chánh Án Tòa Án Mỹ Tho.  Hiện nay chú nghỉ hưu, thuộc vào bậc trên 60 tuổi Đảng. Các con của Chú cũng nên danh nên phận, người làm Chánh Án Tòa Án tỉnh Tiền Giang, người làm Giáo sư Trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Mỹ Tho.

Chị Thanh Thủy:
Năm 1956 Ba cậy mai mối gả chị Thanh Thủy về nhà chồng, nhà họ Huỳnh. Ba chồng của Chị là Ông Huỳnh Văn Dở người Phước Kiến danh giá tại xã Điều Hòa, thị xã Mỹ Tho. Chồng Chị tên Huỳnh Văn Mẫn, tốt nghiệp Trung học trường Hoa. Tôi buồn quá, nhớ Chị, mỗi lần đi Mỹ Tho mua đồ về bán, ghé thăm Chị, khóc hu hu!

Chị Tư làm dâu rất chính chuyên, chung thủy với chồng, dù chồng lén có vợ bé, chị Tư biết nhưng vẫn cam chịu, làm ăn vất vả nuôi đàn con 5 trai đến khôn lớn nên người. Bên nhà chồng chị Tư rất thương quý nể Chị bởi đức tánh thủy chung. Chị tự đứng ra cưới vợ cho các con, cho đến khi lên đến chức “Bà Cố”, phát tâm tu hành niệm Phật trường chay, thường ngày hay hiệp cùng với bạn bè đi chùa tụng kinh niệm Phật. Chị Tư qua đời biết trước ngày giờ nên đã chuẩn bị tư lương cho mình một số kiến thức Phật học, siêng niệm Phật đến  cùng, Chị tươi cười chắp tay niệm Phật mà trút hơi thở cuối cùng. Chị mới qua đời năm 2012, chúng tôi phụng thờ Chị tại Quan Âm tu viện, đúng với sở nguyện của Chị khi sanh tiền muốn được gần Phật thánh, không trở lại thế gian luân hồi khổ đau nữa.

Miền dĩ vãng trở về nơi cô đọng
Lá thu rơi cạnh chiếc bóng cô đơn
Mượn tấc hơi xa thế giới dỗi hờn
Thân thục nữ trăm năm giờ viên mãn
(Giác Quang thi tập 2 - Chiếc lá rơi)

Mùa hạ năm 1956, Ba dắt tôi đi tắm biển Tân Thành, đi cùng với các ban học sinh lớp Nhì (lớp bốn) rất vui. Đang lúc tắm biển bỗng nhìn về biển khơi thấy vùng núi non bao la hùng vĩ hiện trước mắt. Núi cũng là sư thật, biển cũng là sự thật, nhưng tất cả đều lớn quá với tuổi đời của tôi. Bất chợt tôi nghĩ: “muốn đến đó để được ở cùng với mọi người…”. Tắm xong, Ba dắt đi bách bộ xem biển, làm gì thì làm nhưng tôi vẫn nhìn về vùng núi non mà tôi phát hiện và cứ miên man về “núi non hùng vĩ”.

Mơ về cảnh núi non bao hùng vĩ
Sóng biển dập dồn chí cả nam nhi
Đây con tim theo nhẹ bước chân đi
Xin hỏi đó có ai quen không nhỉ?

Quy y thọ pháp:
Mùa thu năm 1957, Ba dắt tôi về Long Trung quy y Phật với Hòa thượng Bổn sư thượng Quảng hạ Đức (Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân năm 1963), chùa Long Khánh ở làng Long Khánh, cạnh làng Bà Nội. Bà Nội cũng quy y xuất gia đầu Phật với Hòa thượng tại chùa. Hòa thượng Bổn sư nhận Ba tôi và tôi làm đệ tử, Ba pháp danh Quảng Thiện, tôi pháp danh Nhuận Đức. Hòa thượng ban cho chúng tôi một lòng phái và khuyến giáo học thuộc lòng để tu hành cho tinh tấn, bài kệ lòng phái như sau:

Đạo bổn ngươn thành Phật tổ tiên
Minh như hồng nhựt lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền.

Và tôi học thuộc lòng từ đó đến hôm nay 57 năm năm rồi. Lòng phái được dạy phải đeo trước ngực. Lúc bấy giờ tôi mắc cỡ lắm, đâu dám đeo, nhưng lần hồi rồi cũng quen, đi đâu tôi cũng mang lòng phái trước ngực, nhằm cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho được tai qua nạn khỏi, nhất là nhờ niệm Phật cho ma quỷ không dám đến gần, người ác không xâm hại. Ngày nay khi nhìn các Hòa thượng lớn hay các Hòa thượng ở ngoại quốc vào Việt Nam có đeo ví ở trước ngực, ví đó đựng giấy tờ tùy thân, lòng phái giới điệp của các Cụ, tôi nhìn thấy đẹp vô cùng. Vậy mà hồi nhỏ mình đeo lòng phái lại mắc cỡ, nghĩ lại thấy thật khờ khạo!

Nói gì thì nói chớ Ba vốn là người tu Phật. Thuở nhỏ khi vào trường, Ba vẫn còn cạo đầu, mặc áo vạt hò theo Bà Nội ăn chay trường, mỗi đêm theo Bà Nội vào chùa tụng kinh niệm Phật.

Người dẫn đạo:


Tôi xuất gia là do Cô Ba Hòa hướng dẫn. Xin nói về Cô Ba Nguyễn Thị Hòa, pháp danh Diệu Hòa, thường gọi là Cô Ba Hòa, là bạn hàng lớn tiệm buôn của Ba. Cô đi tu ở núi Bồng Lai (Bà Rịa), quy y với Mẹ Trầu, dạy pháp tu niệm Phật Tịnh độ. Khi về nhà Cô Ba rất siêng năng tụng kinh. Nhà Cô Ba ở gần nhà chúng tôi nên khi Cô tụng kinh, chúng tôi đều nghe rõ ràng từng tiếng một. Nhà chúng tôi cũng tụng kinh, thỉnh thoảng, có bác Bảy Lăng, bác Ba Tác, chú Bảy Nhung, cô Ba đến nhà tôi tụng kinh, cho chúng tôi tụng theo. Những ngày có quý vị đến tụng kinh, nhà chúng tôi vui lắm, dùng từ “Phật đến”. Mỗi tháng cứ đến ngày rằm, mùng một quý vị đến tụng kinh, Ba đãi cơm quý vị và trở thành thông lệ  cho đến khi Ba dắt tôi đi núi, cầu học Phật pháp với Mẹ Trầu.

Tôi còn nhớ các vị tụng kinh rất nhiều, trong đó có một bài kinh đặc biệt hôm nay các tu sĩ thế hệ mới có thể đã bỏ qua, nhưng tôi còn nhớ bài kinh mà các vị tụng tại nhà tôi thời ấy như sau:

Nam mô Đại từ Đại bi Quảng đại linh cảm Quan Thế Âm Bồ Tát

Nam mô Cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật.

Phật cáo A nan ngôn:”Thử kinh đại thánh năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bệnh, năng cứu tam tai, bát nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn; tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.”

Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ, Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát. A Nậu Đại Thiên Vương Chánh điện Bồ Tát, Ma kheo Ma kheo, thanh tịnh Tỳ kheo; quan sự đắc tán; tụng sự đắt hưu. Chư đại Bồ tát, ngũ bá A la hán cứu hộ đệ tử nhứt thân ly khổ nạn. Tự ngôn Bồ tát Quan Thế Âm, anh lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành.

Tức thuyết chơn ngôn viết:

Ly Bà Ly Bà Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà Ra Ni Đế, Ni Ha Ra Đế, Tỳ Lê Ni Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Ta Bà Ha.

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Chiếc Áo Mùa Đông - Quy Y Thọ Pháp”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com