Năm 1963 tôi được thọ giới Sa di tại Trường Sanh Phật tự, xã Điều Hòa, thị xã Mỹ Tho, cùng với 125 vị Tăng sinh bạn của tôi, tất cả đều là Nhà Sư tu theo hạnh Khất sĩ của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang.

Năm 1964 nhân sự kiện chiến tranh Việt Mỹ, mọi người phải xuống núi, tôi xuống núi đi học, vừa làm Du Tăng Khất sĩ, làm Tăng sinh cư trú chùa Thiền Tịnh, Dakao, kế đến chùa Tam Bảo, đường Trần Quang Khải, sau qua chùa Trấn Quốc, đường Minh Mạng, chùa Thới Hòa, chợ Ông Tạ Hòa Hưng. Cuối cùng, tôi cư trú Việt Nam Quốc Tự, đi học tư thục Trung học Hồng Lạc kế bên chùa, dự học Phân khoa Đại học Vạn Hạnh, tại Phú Thọ Hòa 2 và tại đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận.

Tu học Pháp hạnh khất sĩ: hằng ngày 6 giờ sáng đi lễ các vị Tỳ kheo, 7 giờ đọc học Chơn lý, 8 giờ sáng đi trì bình khất thực theo quy luật, dù ở bất cứ nơi nào thành thị hay nông thôn đều phải làm hạnh Phật. Đi trì bình khất thực cho đến 9 giờ, có ai cúng dường cũng tốt, mà không ai cúng dường (để bát) cũng được, nhưng phải đi về đúng luật, trưa cúng ngọ, thọ thực. Đi khất thực là bố thí pháp, xin là xin ăn để tu học, không xin tiền, đầu đội trời chân đạp đất, thuyết pháp giúp người biết làm việc bố thí, biết làm việc thiện, học Phật pháp với Nhà Sư Du Tăng Khất sĩ. Đảnh lễ Nhà Sư Du Tăng Khất sĩ là đảnh lễ Đức Phật tại tiền, thêm nhiều phước huệ. Xin là xin pháp Phật để tu, bố thí là bố thí pháp cho Phật Pháp trường tồn, không phải bị mai một theo bóng thời gian.

Làm Nhà Sư Du Tăng Khất sĩ tức là học làm Phật, học đạo giải thoát, giải thoát ngay từ kiếp nầy, không hẹn lần hẹn lữa ở các kiếp nào khác. Tôi ham thích tu hạnh Nhà Sư Du Tăng Khất sĩ, vì dễ dàng thọ pháp, thuận duyên tu hạnh giải thoát, thường sống cách xa xã hội, xóm làng, tụ lạc, dễ dàng thu hút khi đăng đàn thuyết pháp. Nhà Sư thuyết pháp như nhà hùng biện, thật sự tôi thuyết pháp thao thao bất tuyệt, không ai giảng qua tôi, dù tôi còn quá trẻ, mới 21 tuổi đời mà tôi thuyết giảng trước số đông vài trăm người tại chùa Như Lai, ngã tư Trung Chánh, thuyết giảng tại Trại Mát, Trại Hầm, Chi Lăng, Thái Phiên…thị xã Đà Lạt.

Ba năm học đạo giữa sơn trung
Bạn hữu gần xa được tao phùng
Từ đây hoằng pháp kiêm hoằng giới
Thuyết pháp độ đời chúng sanh chung.

Thật ra mà nói, khi còn ở núi non, tôi được sự hộ trì vô vi của Mẹ Trầu và Ông Sáu, nên rất siêng học Kinh, Luật, Luận, nhất là tôi học thuộc lòng các bài luật Tỳ kheo, Sa di, Tỳ ni, Oai nghi  Cảnh sách, các bài kinh cúng dường, các bài pháp do Đức Tổ sư Minh Đăng Quang thuyết giảng, soan dịch.

Sở dĩ tôi có được sở hữu tâm linh đó là do tôi được gần Mẹ Trầu trong những năm tháng tôi làm Thị giả cho Ngài ở điện Lôi Âm và Bồ Đề Phật Điện, Bửu Cung Phật Nam, điện Tào Khê. Mẹ Trầu dạy cho các vị Sư lớn, tôi còn trẻ nhưng học được các bài:

Phổ Hồi hướng Chơn ngôn:

Án, ta ma ra, ta ma ra, nhĩ ma nãng, tất cáp ha, ma ha, chước ca ra, phạ hồng!
Nhứt hồi hướng: Chơn như thật tế, tâm tâm khế hiệp
Nhị hồi hướng: Vô thượng Phật quả Bồ đề
Tam hồi hướng: Pháp giới nhứt thiết chúng sanh đồng sanh Tịnh độ


Năm 1966, tôi 20 tuổi do sự quyết tâm tu hành và học kỹ giới luật, tôi được phép cùng với chư Tăng Non bồng thọ các giới Tỳ kheo, chư ni thọ giới Tỳ kheo ni, một số vị thọ Sa di, Bồ tát giới tại Trụ sở Trung ương Phật giáo Tịnh Độ tông Việt Nam - Liên Tông Tự - Đuờng Đề Thám - Quận Nhì - Saigon, do HT Thích Huệ Chiếu chứng truyền.

Tháng 4 năm 1967, Đức Tôn sư cho phép Tăng ni, Phật tử Non bồng đến thọ giới Tỳ kheo, Sa di và Bồ tát giới tại giới đàn Thiền Tịnh Tự, Dakao, Gia Định, do Hòa thượng Thích Đạt Trung chứng truyền.

Ngày 27 tháng Bảy, năm Đinh Mùi (1967), tham dự Đại hội lần thứ nhất tại Tây viện Quan Âm tu viện, thành lập Đoàn du Tăng Khất sĩ Non bồng, cũng tức là ra mắt thành phần nhân sự môn phái Liên tông Tịnh độ Non bồng. Có 400 Tăng ni Non bồng tham dự, dưới sự chứng minh của Mẹ Trầu, và chủ trì của Ông Sáu, Sư Giác Quang dẫn chương trình, Sư Thiện Giác viết biên bản. Kết quả: Tông phái Tịnh Độ Non Bồng được thành lập, có khuôn dấu nổi, khuôn dấu Tông trưởng, Cờ tông phái, Nội quy tông phái cũng được thiết lập thật súc tích, rõ ràng để thực hiện. Tất cả tư liệu trên hiện nay đều được lưu trữ tại Thư viện Non bồng.

Mùng 2, tháng giêng năm Mậu Thân, 1968 tôi mới thật sự về Quan Âm tu viện. Do chiến tranh tàn phá khốc liệt khắp đất nước, tôi không dám mạo hiểm đi Du Tăng trì bình nữa, mà dừng chân dạy học Phổ thông trường Trung Tiểu học Lâm Tỳ Ni, thuộc Quan Âm tu viện - Cô nhi viện Phước Lộc Thọ và dạy giáo lý Tỳ ni, Sa di, Oai nghi, Cảnh sách tại Long Sơn cổ tự.

Năm 1968, tôi vâng lệnh Đức Tôn sư hướng dẫn chư Tăng ni phát tâm thọ giới Tỳ kheo, Sa di tại giới đàn chùa Từ Quang, Thủ Đức, do Hòa thượng Thích Thiện Hòa chứng truyền

Năm 1970, tôi vâng lệnh Đức Tôn sư hướng dẫn chư Tăng ni đến thọ các giới tại đại giới đàn chùa Thanh Long, phường Trung Dũng, Biên Hòa, do HT Thích Huệ Thành chứng truyền.

Năm 1975, tôi được cửa làm Tổng Thư ký Quan Âm tu viện - Cô nhi viện Phước Lộc Thọ cho đến cô nhi viện giải thể theo chính sách chung của Nhà Nước vào tháng 10/1978.

Năm 1976, 1978 Ni trưởng Thích nữ Huệ Giác hướng dẫn chư Tăng ni đến thọ các giới tại giới đàn Tổ đình Long Thiền. Năm 1980, tôi tham gia Ban tổ chức giới đàn Bửu Phong cổ tự và hướng dẫn chư Tăng ni thọ giới pháp tu hành, do HT thích Huệ Thành chứng truyền.

Ngày mùng 2 tháng 6 năm 1978, TT Trụ trì Thích Thiện Chơn viên tịch - Đức Tôn sư và Tông phong cử Ni trưởng Huệ Giác làm Trụ trì Quan Âm tu viện cho đến hôm nay.

HT Thích  Giác Quang



Có phản hồi đến “Chiếc Áo Mùa Đông - Hoằng Giới”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com