Tuần trước, Ngọc Hằng được một bạn trẻ nằm trong nhóm những người bạn thường theo Sư Cô Hương Nhũ mà với các bạn là Sư Cô Idol nghe thuyết giảng tu tập đến hỏi Ngọc Hằng có phải là đệ tử của thầy tổ ở Quan Âm Tu Viện, Đồng Nai hay không vì Sư Cô cũng xuất thân từ tu viện. Ngọc Hằng thưa phải thì người bạn ấy hỏi Ngọc Hằng có biết hiện đang có một bài viết nói xấu chống báng thầy tổ đang lan truyền trên mạng. Thú thật, Ngọc Hằng ngày ngày làm việc phật sự trên mạng nhưng không bao giờ mảy may quan tâm hay đi tìm hiểu những lời nói chống báng chư tôn Đức tăng ni nào. Vả lại, ngoài thời gian phật sự, Ngọc Hằng còn phải lo rất nhiều chuyện cá nhân, chăm sóc gia đình, khám chữa bệnh, giúp đỡ bệnh nhân ở Mỹ nên mỗi ngày có làm được điều gì phúc lợi cho bạn đọc trên trang nhà Linh Sơn Phật Giáo là Ngọc Hằng đã quá mừng đâu rãnh rỗi đi đọc toàn những tin ngược đạo lý như vậy.
Xem thêm:
Thương Lắm Quê Hương Ngày Trở Về Bên Bóng Thầy Tỏa Rạng
Quan Âm Tu Viện: Nơi Sưởi Ấm Những Tâm Hồn Xa Quê
Một Vòng Quanh Quan Âm Tu Viện
Chùm Ảnh: Quan Âm Tu Viện Đồng Nai Với Đại Giới Đàn Minh Vật Nhất Tri
Theo sự chỉ dẫn của bạn ấy, Ngọc Hằng mới vào xem bài viết họ viết chống báng cái gì. Với sự hiểu biết nông cạn của mình thì Ngọc Hằng cảm giác người viết bài cũng có một chút trình độ về Phật pháp dù không biết họ là ai vì ẩn danh. Khởi tâm Ngọc Hằng tự nghĩ tại sao một người có sự hiểu biết về Phật pháp như vậy lại không biết năm giới cấm đầu tiên và quả báo của những lời nói ác, nói lưỡi đôi chiều, phá hòa hợp tăng, vu khống. Mới đọc vài dòng Ngọc Hằng đã không muốn đọc nữa vì thấy khá hài hước, buồn cười với những luận điệu xuyên tạc toàn ác nghiệp mà người ta dùng để thi nhau chửi mắng ở ngoài chợ đời thì đúng hơn. Ngọc Hằng lướt cho xong rồi thởi phào nhẹ nhỏm như trút được một gánh nặng vì có cảm giác mình phải chịu đựng tra tấn đọc những từ ngữ mà một người có học bình thường không bao giờ nên dùng.
Ngọc Hằng khuyên người bạn ấy không nên quan tâm đến những chuyện thị phi ấy và chuyện nói xấu, chống báng chư tôn Đức Tăng Ni thì quả báo không nhỏ. Các bậc chân tu chẳng ai mảy may quan tâm chuyện này vì chuyện đúng sai theo thời gian sẽ rõ, thiện ác chánh tà tự sinh sẽ tự diệt thôi, chỉ khổ cho người làm ác vì tâm họ lại tăng thêm sân hận khi khi không được quan tâm. Vả lại, thời Đức Phật còn tại thế, chính Ngài còn bị ngoại đạo thường xuyên vu khống, chống phá, nói lời ác, kể cả bị chính em họ của mình là Đề Bà Đạt Đa mưu tâm sát hại biết bao nhiêu lần nhưng Ngài vẫn an nhiên thôi. Vì vậy, chuyện “những anh hùng bàn phím,” thuật ngữ mà Ngọc Hằng học được từ một người em là dành cho những người rãnh rỗi, không có chuyện làm, suốt ngày ngồi viết vẽ, chỉ trích, nói xấu người khác cứ như mình là đại diện cho công lý ,họ hết chống quý thầy nọ đến quý sư cô kia, những ai được quý Phật tử ưu thích còn những người khác rãnh rỗi tò mò lại đi tìm đọc để bình luận, vô tình tạo thêm ác nghiệp. Với các bậc chân tu thì những chuyện đó quá tầm thường, chỉ như là một sự khảo nghiệm, chẳng bao giờ làm các Ngài mảy may quan tâm.
Thế giới mạng đầy phức tạp và những lời ác nghiệp , tranh cãi hơn thua như vậy tràn lan, chưa kể ngoại đạo chống báng nên Ngọc Hằng khuyên bạn trẻ ấy nếu có duyên với sư cô Hương Nhũ hãy cố gắng tu hành như lời Sư Cô dạy, đừng bao giờ quan tâm đến những lời ác khẩu dù là với bất cứ ai. Còn ai gây ra ác nghiệp vì tham sân si ngã mạn thì quả báo sẽ đến với chính họ không cần bất cứ ai phải đứng lên bảo vệ, chỉ trích. Thầy tổ ở Quan Âm Tu Viện cũng sẽ chỉ mỉm cười thương xót cho người viết bài ấy và cũng sẽ đón nhận họ nếu một ngày họ có duyên tìm về vì các Ngài đều là những bậc chân tu, dung chứa tất cả chúng sinh thiện ác. Ngọc Hằng mong người bạn ấy sớm biết lỗi của mình mà thành tâm sám hối kẻo quả đến sẽ rất khổ. Đức Phật dạy "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả", nhân quả là không hề sai chạy, như bóng với hình nên nhân đây, Ngọc Hằng xin kể cho các bạn nghe câu chuyện “Lời Nói Ác Phải Chịu Quả Báo.” A Di Đà Phật!
“Lúc đức Phật thuyết pháp ở thành Tỳ Gia Lê, có một người tên là Ca La Việt, được nhìn thấy tôn nhan của Thế Tôn, sinh lòng hân hoan vô hạn, bèn thỉnh đức Phật đến nhà để có dịp thành tâm cúng dường.
Khi đức Phật đến và từ bi chú nguyện cho ông, Ca La Việt trân trọng đứng lên cung thỉnh Thế Tôn thuyết giảng ý nghĩa chân thật của Phật pháp. Đức Phật mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra một luồng ánh sáng năm màu rực rỡ, luồng ánh sáng này lập tức nhiễu quanh Ngài ba vòng rồi mới ẩn vào đỉnh đầu của Ngài mà biến mất.
Ngài A Nan thấy thế, vội sửa y phục đến trước đức Phật mà bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn! Phật không khi nào cười mà không có nguyên do. Hôm nay Thế Tôn cười, chắc là có điều gì muốn khai thị cho chúng con. Chúng con vô cùng ngưỡng mong được nghe Thế Tôn từ bi thuyết pháp.
Đức Phật lại cười đáp:
– Được rồi, A Nan! Ta biết ông lúc nào cũng vì chúng sinh mà mong muốn vạch ra một con đường đưa đến giải thoát, cho nên bây giờ ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.
Cách đây rất lâu, tại một vương quốc nọ, có 500 người lái buôn chuyên đi đào quật các mỏ vàng ngọc châu báu. Có một hôm, họ vào biển sâu tìm kho tàng. Tìm được kho tàng rồi, trên đường về, họ sợ gặp sóng dữ nguy hiểm nên mới bỏ thuyền mà đi trên đất liền. Ngày hôm ấy họ băng qua một ngọn núi cao, khi mặt trời đã ngả về tây, mọi người nằm ngay xuống đất mà ngủ, hẹn nhau rằng hôm sau khi trời vừa hừng sáng thì phải lập tức lên đường.
Quả nhiên, sáng sớm ngày hôm sau, 499 người thức dậy đúng giờ chuẩn bị hành trang xong xuôi là khởi hành ngay, chỉ có một người không ai nhìn thấy mà đánh thức nên vẫn còn nằm ngủ say ở đó.
Khi người này mở mắt tỉnh giấc thì đã lạc mất đồng bạn, cuống cuồng chạy ra đường núi những tưởng bắt kịp đoàn người kia, nhưng đã muộn mất rồi! Người này chạy tới chạy lui, nhưng chạy đường nào đi nữa cũng không ra khỏi được những hẻm núi quanh co hiểm trở.
Đúng lúc ấy, gió bắc bỗng nổi dậy rít lên giận dữ, trong chớp nhoáng một trận cuồng phong thổi tới làm cho cát đá bay loạn xạ, từng tảng băng tuyết ào ạt rơi xuống, con đường núi trước mặt phút chốc đã bị băng tuyết phủ kín, không trông thấy đâu nữa.
Con đường về nay đã không còn, người lái buôn này tuyệt vọng ôm mặt khóc ròng, nước mắt lả chả.
Trong những hẻm núi quanh co đó có một cây gỗ thơm Chiên Đàn, hấp thụ tinh hoa của trời đất từ lâu đời nên có được tánh linh và biến thành một vị thần cây. Thần cây biết được nỗi thống khổ của người lái buôn lạc đường nên phát tâm cứu giúp, đến trước người này mà nói rằng:
– Ông có thể tạm thời đến chỗ của ta mà ở, chuyện ăn uống, quần áo đã có ta lo liệu, chờ tới mùa xuân năm sau, băng tuyết tan rồi sẽ tìm ra đường về.
Người lái buôn đã đến bước đường cùng, nghe thế mừng rỡ vô cùng, từ đó bèn trú ngụ dưới gốc cây Chiên Đàn này.
Thời gian qua như tên bay, chẳng mấy chốc mùa xuân đã đến, băng tuyết đã tan, đường về đã hiện ra trước mắt, người lái buôn lạc đường mới nói với thần cây:
– Khi tôi cùng đường mạt lộ, hân hạnh được ngài cứu vớt mới sống sót được tới ngày hôm nay, chỉ hận là trong người không có vật gì để báo đáp ơn ngài. Bây giờ tôi còn chút cha già phải về phụng dưỡng, xin ngài vui lòng đưa đường chỉ lối cho tôi về.
– Được –thần cây cười nói và đưa cho người này một cái bánh bằng vàng –, ông cứ đi thẳng trước mặt thì sẽ đến một ngôi thành nhỏ, cứ ven theo ngôi thành ấy thì sẽ tìm được đường về nhà.
Nghe xong, người lái buôn lạc đường mới cáo biệt thần cây:
– Gốc cây này mùi hương ngào ngạt thanh khiết không gì sánh bằng, trên thế gian chắc chắn không có một gốc cây thứ hai như thế. Hôm nay tôi từ biệt ngài mà về chốn xa xôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ không được gặp lại ngài nữa, chỉ ao ước ngài vui lòng cho tôi biết tên.
Thần cây trả lời:
– Ông hãy đi về đi, tìm biết tên ta mà làm gì.
Người lái buôn nói:
– Tôi rất xấu hổ, lúc cùng đường gặp ngài nên được sống sót, tính lại hơn một trăm ngày đã trôi qua mà chưa báo đáp được mảy may nào công ơn to lớn của ngài, thật ra tôi không làm gì khác được là xin được biết quý danh để khi về tới nhà, tôi có thể kể cho người nhà biết đến công đức của ngài.
Thần cây thấy người lái buôn có vẻ thành thật, không nỡ từ chối hảo ý của người này nên thẳng thắn nói tên mình là Chiên Đàn, nhưng dặn đi dặn lại mấy lượt:
– Rễ nhánh của ta có thể trị được tất cả các loại bệnh của thế gian, mùi hương của ta bay ngát bốn phương trời, ở xa cũng có thể ngửi thấy, có thể nói là trên đời có một không hai. Nhưng nếu mọi người biết được sự hiện diện của ta, lòng tham không đáy của họ sẽ khiến họ đến đốn ngã ta mất. Vì thế, ta hy vọng ông sẽ không nói với ai chỗ ta ở.
Người lái buôn cám ơn thần cây rồi, đi theo lộ trình thần cây chỉ dẫn, quả nhiên về được tới nhà của mình. Sau đó ông sống những chuỗi ngày an vui hạnh phúc bên cạnh cha mẹ và vô số bạn bè thân thích.
Sau đó không lâu, nhà vua bỗng mắc bệnh đau đầu, thuốc thang mọi thứ đều vô hiệu, sau gặp một vị thầy thuốc danh tiếng nói cho biết rằng chỉ có một phương thuốc chữa được bệnh của vua, đó là làm sao tìm cho ra một cây Chiên Đàn, lấy lá rán lên làm thuốc mà uống.
Nhà vua nghe thế, lập tức xuống chiếu nói rằng, hễ ai tìm được cây gỗ thơm Chiên Đàn thì sẽ được phong thưởng hậu hĩ, chưa kể còn được vua gả công chúa cho nữa.
Lệnh vua truyền xuống chẳng mấy chốc đã tới tai người lái buôn ngày nào đi lạc đường. Người này tuy mặt người nhưng lòng thú, tâm tham dục quyến rũ không sao cưỡng được, nên quên mất ơn cứu mạng và những lời căn dặn năm lần bảy lượt của thần cây, lén lút chạy đi nói với nhà vua là mình biết chỗ có cây Chiên Đàn.
Nhà vua liền phái một đoàn dũng sĩ đi theo gã lái buôn để đốn cây Chiên Đàn mang về.
Thế là một đoàn người rầm rộ, ngày đi đêm nghỉ không một ngày nào ngừng, quả nhiên đến được chỗ có cây chiên đàn. Mọi người ngước lên chỉ thấy cành lá sum sê, thân cây sừng sững chót vót. Bọn vệ sĩ thấy cây như thế, không ai nỡ ra tay đốn. Nhưng nếu về tay không thì cái tội khi quân, cưỡng lệnh vua làm sao trốn thoát? Đang phân vân lưỡng lự thì bỗng có tiếng nói vang rền từ trên không vọng xuống:
– Ta là thần của gốc cây này, quý vị nếu muốn đốn cây thì cứ việc ra tay. Chỉ xin quý vị cố gắng giữ gìn rễ cây để cây đừng chết hẳn. Đốn cây xong, xin quý vị kiếm xác của một người mới chết, lấy máu người này bôi lên rễ cây, rồi lấy ruột gan đắp lên trên, cây sẽ có thể sống lại như cũ.
Nghe đến đây, ai nấy mỗi người một tay đưa búa lên chém, thân cây ngã xuống đánh ầm một tiếng. Đúng lúc đó, người lái buôn đứng bên cạnh đang mải mê ngước đầu lên nhìn bỗng rú lên rồi ngã xuống đất. Mọi người hớt hải chạy đến thì thấy trên thân của người này máu chảy dầm dề. Thì ra người này không hiểu sao bỗng vấp phải một cái rễ cây mà ngã xuống, bị trúng ngay chỗ hiểm. Thật đáng thương, tiền lãnh thưởng thì chưa thấy đồng nào mà tính mệnh thì than ôi đã đi đời!
Lúc mọi người còn đang bàn tán sôi nổi bên cạnh thi thể của người lái buôn xấu số, thì có một người lên tiếng:
– Lúc nãy tôi nghe có tiếng người nói từ trên không vọng xuống, bảo kiếm xác người mới chết lấy máu mà bôi lên, rồi lấy ruột gan mà đắp lên rễ cây. Lúc đó tôi hoang mang tự hỏi, ở một nơi hoang vắng như thế này thì lấy đâu ra xác người? Nào ngờ người lái buôn này lại chết bất đắc kỳ tử, hay có thể ông ta vừa tới số cũng không chừng, thôi thì chúng ta hãy tạm lấy máu và ruột gan ông ta đắp lên rễ cây vậy.
Mọi người ai nấy đều đồng lòng hưởng ứng, khi họ hoàn tất việc này, trong nháy mắt rễ cây bỗng đâm ra tua tủa và cành lá vươn lên rậm rạp, gốc cây sum sê tươi tốt như thể chưa từng bị đốn xuống bao giờ.
Nhà vua nhờ uống thuốc chế từ cây Chiên Đàn nên bệnh đau đầu phút chốc đã lành, bèn truyền lệnh cho tất cả thần dân, ai có bệnh thì hãy đến lấy thuốc Chiên Đàn còn lại đem về uống, chẳng bao lâu, bệnh tật nào cũng chữa lành hết. Từ đó đất nước thanh bình, quốc thái dân an, hưởng hạnh phúc lâu dài.
Ngài A Nan nghe đức Phật kể đến đây, bèn rời chỗ ngồi, tiến lên lễ Phật bạch rằng:
– Người lái buôn lạc đường sao lại vong ơn bội nghĩa, quên lời dặn dò của thần cây? Tại sao vì muốn lãnh thưởng mà lại làm chuyện trái với lẽ phải như thế kia?
Đức Phật là một vị đại giác, Ngài biết một cách rõ ràng mọi dây mơ rễ má của từng quan hệ nhân quả một, nên trả lời ngài A Nan:
– Ngày xưa khi Phật Duy Vệ còn tại thế, có ba cha con nhà nọ. Người cha chăm chỉ thực hành ngũ giới, thập thiện, nghiêm trì bát quan trai giới, tinh tiến, không giải đãi. Người con trưởng cũng hay ở giữa sân hướng lên không trung mà đốt hương lễ bái, cúng dường chư Phật trong mười phương. Còn người con út lại ngu si không biết tôn kính Tam Bảo, thường lấy áo quần không thanh khiết mà đậy lên những nén hương này. Người con trưởng nói:
– Hành động mày làm rất tội lỗi, làm sao mày có thể ngang ngược làm chuyện xúc phạm như thế được!
Người con út không những không hối lỗi mà còn dùng lời thô ác mắng lại anh:
– Hứ! Sao anh dám xía vô chuyện của tôi? Tôi thề chặt đứt chân anh mới hả lòng!
Người con trưởng không nén được cơn giận mới trả lời:
– Đồ mất dạy, tao giết mày chết bây giờ!
Người cha đứng bên cạnh cũng nổi cáu lên mà ôm đầu than:
– Chúng bây hai đứa cãi nhau ồn ào quá, làm tao bực bội nhức cả cái đầu đây này!
Người con trưởng nói:
– Con sẵn sàng mổ thân con ra làm thuốc chữa cho cha lành bệnh.
Đức Phật nói đến đây, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
– Ai cũng thế, không nên thốt lời vọng ngữ! Kiếp này tạo khẩu nghiệp, về sau thế nào cũng bị báo ứng. Như đứa con út vừa nói ban nãy, vì niệm ác khởi lên muốn chặt đứt chân anh, quả nhiên về sau đem người đến đốn cây, tức là người anh đầu thai lên làm thần cây. Người con trưởng đòi giết em, quả nhiên sau đó thực hiện lời nói của mình. Còn ông vua bị bệnh đau đầu chính là cha của anh em nhà ấy, nhờ phụng trì trai giới một cách tinh tấn nên sinh ra được mọi người tôn quý, nhưng chỉ vì khi hai đứa con của ông cãi nhau, ông đã từng nói “làm cho tao nhức đầu quá” nên về sau quả nhiên bị bệnh đau đầu.
Những người này, người nào cũng đã từng thốt lời vọng ngữ bừa bãi, nên mỗi người đều chịu quả báo lời nói của mình.
Cho nên nói rằng, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, không mảy may sai chạy là như vậy.
Đức Phật thuyết về vấn đề giữ giới thân khẩu ý xong, ông Ca La Việt đứng bên cạnh Ngài lập tức chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong nhà ông có bao nhiêu tài sản, ông đem lên cúng dường hết để dùng vào việc truyền bá rộng rãi Chánh pháp. Xong, ông còn đưa vợ con đi quy y Phật, để họ được bước trên con đường chính giác.”
Ngọc Hằng