Hôm nay, nhân duyên có một độc giả đến trang nhà Linh Sơn Phật Giáo hỏi rất kỹ về việc trì tụng Chú Đại Bi, nên trì làm sao và bản chú đại bi nào là đúng nhất vì bạn sợ rằng nếu nói sai thì việc trì tụng sẽ không có hiệu quả vì đây là kim khẩu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Đọc những lời bạn hỏi, Ngọc Hằng vừa thương cũng như khâm phục bạn vì cố gắng tu hành, biết mình mắc lỗi làm sai, suy nghĩ không đúng nên giờ hội đủ duyên lành bạn cố gắng tu hành, trì tụng Chú Đại Bi.

Thông qua những câu hỏi của bạn, Ngọc Hằng thấy bóng dáng của mình trong ấy khi lần đầu đến với cửa Phật bốn năm về trước. Ngày đó, Ngọc Hằng không hề biết gì về Phật pháp, không biết nên tụng niệm, hồi hướng thế nào, kinh chú lại càng chẳng biết. Má Ngọc Hằng bị nghiệp bệnh vô phương cứu chữa nhưng đứng trước bàn thờ Phật Ngọc Hằng cũng không biết phải nên làm như thế nào, chỉ biết khấn nguyện theo những gì mình suy nghĩ. Nơi Ngọc Hằng ở Mỹ lại chẳng có chùa chiền và Ngọc Hằng lại không biết quý thầy nào để được giảng dạy về Phật pháp cả.

May mắn khi Ngọc Hằng được quen biết anh bạn đạo trên mạng và được anh đưa đến con đường đạo pháp thì cũng là lúc Ngọc Hằng hoang mang cực độ khi được anh chỉ dạy Phật pháp, cách tụng kinh, trì niệm chú Đại Bi. Cũng như bạn, Ngọc Hằng thắc mắc đủ kiểu vì sách vở chỉ dạy quá nhiều, bản chú đại bi cũng có nhiều chữ khác nhau còn nghi lễ vào trì tụng, hồi hướng thì lại càng hoảng loạn. Ngọc Hằng cũng sợ mình làm không đúng, không biết cái nào mới là của chư Phật giảng dạy, sợ mình đi sai đường, sợ mình hành trì sai thì sẽ không có kết quả.

Với một con người đầy chấp ngã cũng như khá ngạo mạn, Ngọc Hằng và anh bạn đạo thường xuyên cãi nhau. Anh hay la Ngọc Hằng loạn động, bất định, việc trì tụng như thế nào cũng được, chấp quá nhiều tâm không định được thì làm sao có kết quả. Anh bảo ngàn niệm cũng chỉ gom về một niệm ở chữ định tâm và nếu lúc loạn tâm chỉ cần niệm một chữ định là đủ rồi. Lúc đó Ngọc Hằng nghe thì nghe nhưng chẳng tin dù cũng cố gắng tu trì trong khả năng, cũng mang bản Chú Đại Bi ra đọc ngày ngày chỉ mong có phép linh hiển nào đó cứu má mình mà thôi.

Sau bốn năm, dù việc tu hành vẫn còn quá kém cỏi nhưng nghĩ lại những gì đã qua, Ngọc Hằng cũng tự cười mình và bùi ngùi nhớ những gì đã qua, mới thấy mình bị la ngày ấy cũng phải lắm. Nhân duyên với những câu hỏi của bạn nên đêm nay, Ngọc Hằng xin kể cho các bạn nghe câu chuyện “Những Hạt Đậu Biết Nhảy” để chúng ta biết mình nên tu trì như thế nào là đúng và có kết quả tốt hơn nhé. A Di Đà Phật!

“Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhát của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên. Cuối cùng thì bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú gồm có sáu chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng được gọi là Lục Tự Đại Minh Chú, có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng. Tội nghiệp cho bà già thôn dã đã dốt nát lại không biết chữ, trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng đã nhớ lộn cách phát Âm trở thành Án Ma Ni Bát Di Xanh.

Để khích lệ cho việc đọc câu kinh sám hối này bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, còn một cái thì để đầy những hạt đậu nành. Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đã chứa đầy đậu thì bà làm ngược trở lại. Bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm. Lòng thành kính của bà đã ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, cứ một câu thần chú vừa được phát Âm ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Bà lão thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với Âm điệu của câu thần chú thì biết rằng sự tu hành đã đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sửa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn.

Hôm nọ có một vị cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp sụp của bà, nhà sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ. Vị cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo. Ông vội vã ghé vào thăm hỏi. Bà lão lấy làm vui mừng khi thấy vị cao tăng đến thăm, bà quỳ xuống đảnh lễ, mà miệng thì vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Vị cao tăng lấy làm ngạc nhiên vì không hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu? Ông lần lần hỏi thăm :

- Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi? Ở đây còn có ai khác nữa không?.

- Thưa ngài, ở đây chỉ có một mình tôi sống cô độc hơn ba mươi năm nay. Bà lão đáp.

- Thật tội nghiệp, bà ở một mình chắc buồn lắm nhỉ?

- Không đâu, tuy chỉ ở một mình nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ. Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện thì tôi càng có can đảm để sống hơn.

- Bà đang tu luyện kinh sách nào vậy?

- Ồ, tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh.

Nhà sư thở dài tiếc nuối :

- Bà lão ơi, bà đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát Âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng mới đúng.

Đến lúc này thì bà lão mới biết là đã đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm. Bà rất đau buồn vì sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy thì công trình 30 năm tụng niệm coi như xe cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà sư.

- Dù sao thì ngài cũng đã đính chính kịp lúc, bằng không thì tôi còn tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh cho đúng được.

Nhà sư từ giã bà lão để tiếp tục con đường truyền đạo của ông. Bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới Án Ma Ni Bát Di Hồng. Thế nhưng tâm tư của bà còn hỗn độn vì sự việc vừa rồi cho nên ý chí của bà không được tập trung. Mỗi câu thần chú của bà đã không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước. Bà lão vừa tụng niệm mà nước mắt cứ tuông rơi, bà thầm tiếc cho công trình tu luyện hơn ba mươi năm như trôi theo dòng nước vì đã đọc sai câu thần chú.

Nhà sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. Bây giờ túp lều tranh hiện hình dột nát mà lại Âm u buồn bã. Nhà sư giật mình và nghĩ rằng chính ông đã làm hại người Phật tử này không còn tập trung được tư tưởng như lúc trước. Ông vội vã trở lại túp lều tranh và nói với bà lão rằng :

- Lúc nảy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng.

- Nhưng tại sao sư phụ lại dối gạt tôi như vậy?

- Ta muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với Tam Bảo như thế nào vậy thôi. Từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi.

- Cám ơn Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đã trôi theo dòng nước, đa tạ sư phụ chỉ bày.

Sau khi nhà sư ra đi, bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Án Ma Ni Bát Di Xanh được niệm ra thì tâm hồn bà rộn rã tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Nhà sư đi lên đến đỉnh núi, ông ngoái đầu nhìn trở lại thì thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão đã làm sáng rực cả một góc trời.

Thật là :

Một tấm lòng trong sáng

Hoa sen nở rộn ràng,

Sen nở vùng đất sạch,

Trên ngự một Như Lai.”

Ngọc Hằng




Có phản hồi đến “Câu Chuyện Phật Giáo Số 1 – Những Hạt Đậu Biết Nhảy”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com