Mùa đông năm 1961, bấy giờ tôi xuất gia tại núi Bồng Lai được một năm, Mợ tôi đến thăm và có may cho tôi chiếc áo tràng bằng vải lynon, Mợ mua cho tôi chiếc áo lạnh bằng tơ simpeli màu xanh đậm, khi mặc không phải cài nút mà kéo fermeture, tôi mừng quá cảm thấy lòng mình không còn cô độc nữa, thân cảm thấy nóng dần lên bởi sức hút của chiếc áo làm cho tôi thích thú, đồng thời nhận được tình cảm thiêng liêng của Mợ cũng dành cho tôi (đứa con của chồng).

Nhưng sự mừng rỡ chỉ loé lên trong phút chốc. Mợ nói:”Bà Nội và các Anh Chị bảo lên rước con về, nếu không các Anh Chị làm đơn thưa chùa, dụ dỗ trẻ vị thành niên tu hành mà không thông báo cho người lớn biết việc". Tôi kháng cự, nhưng cuối cùng phải đuối lý vì Mẹ Trầu và Ông Sáu không cho ở lại chùa tu hành, Mẹ Trầu dạy phải về thôi.

Hôm sau tôi lủi thủi theo Mợ về nhà trình diện với Bà Nội, các Anh Chị, các vị mừng lắm. Tuy nhiên chỉ một tuần sau, do lực hút của núi non, của việc xuất gia, việc tu niệm, tôi không vượt qua nổi sức mạnh tâm linh đối với người tu Phật. Tôi nhớ chùa quá, nhớ Phật, nhớ Mẹ Trầu, Ông Sáu và mọi người trong chùa, nhớ núi…Và cũng 02 giờ sáng mùa đông, rằm tháng 12 năm ấy, lần thứ hai tôi trốn nhà đi tu, trở về chốn núi non thần tượng từ lâu tôi mơ ước được sống nơi ấy vĩnh viễn muôn đời, không trở lại trần gian.

Với tuổi trẻ vô tư, tôi nhận thấy trong lòng mình, không xuất gia tu Phật, thì con người không là gì cả, vạn vật nầy là hư huyển, như trò ảo thuật giữa chợ đời, như màn kịch ở sân khấu cuộc đời…rốt rồi ta là của cát bụi, phải trở về với cát bụi. Thời gian trôi qua nhanh không bao giờ trở lại, không bao giờ có chuyện trả lại cho ta tuổi thanh xuân.

Trong thời gian ở núi, tôi nghe Mẹ Trầu giảng cho quý Cụ Ông Năm Gò Đen, Ông Tư Hơn, Ông Tư Hùng Dũng, những cụ lớn… câu kinh mà tôi được học thuộc lòng và tâm đắc:

Nhứt Thiết hữu vi pháp
Như mộng huyển, bào, ảnh,
Như lộ, dịệc như điện
Ưng tác như thị quán.

Thế gian mộng ảo, thân thì vô ngã bất tịnh khổ đau, tâm thì vô thường, có gì đâu tríu mến, cuộc đời là cạm bẩy, tài sắc như bóng chớp sương mai, chạy theo bọt bóng là chạy theo ảo giác, là chạy theo cuộc sống trong giấc mộng đêm dài.

Chí hướng thượng xuất gia càng lúc càng loé sáng trong tâm hồn tôi. Lần này thì tôi toại nguyện: Bà Nội, Mợ, Anh Chị những người thân phải cho phép tôi xuất gia thật sự. Bà Nội (đệ tử của HT Quảng Đức) có viết một lá thơ gởi Mẹ Trầu, nhờ Thầy nuôi nấng, dạy dỗ cho cháu nên người và xin lỗi sám hối đã làm phiền hà nhà chùa.

Thế là thế gian tầm đạo lý
Đạo không tầm, không gọi chi chi
Cửa thiền mở rộng rèn nuôi chí
Học Phật tu nhơn tuổi xuân thì.

Làm Tăng sinh:

Năm 1962 tôi được tuyển vào Phật học đường Tây Phương Bồng Đảo khóa 1962-1964. Tăng ni sinh đông lắm, các bạn cùng tu chung tại Non bồng, có đến 200 vị. Các giáo sư như Cụ Huệ Trí, Cụ Thiện Thông, Sư Giác Nguyên, quý thầy đệ tử của Đức Pháp Chủ Khánh Anh, như: Thầy Như Lý, Thầy Phước Điện, Thầy Nhứt Phương tập trung về núi, lập thành một Ban giáo thọ dạy tại Phật Học đường. Cũng nhờ 3 năm học đó mà kiến thức Phật học cơ bản của tôi dồi dào sớm nhất trong các chư Tăng ni miền Nam. Tôi thi tốt nghiệp đổ hạng Nhất đồng hạng cùng với bạn tôi là Sư Từ Pháp (Cam Lồ Thủy).

Mợ tôi hay tin, lên núi mua cho tôi chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Delta và chiếc đồng hồ trái quít hiệu Wyler, cùng với cây viết hiệu Pilot thưởng cho tôi học giỏi thi đậu.

Hai năm học đạo chốn Phật trường
Tịnh độ chơn tông được diễn dương
Tiếp nhận yếu môn hoằng chánh đạo
Tốt nghiệp thủ khoa Phật học đường

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Chiếc Áo Mùa Đông - Người Tu Núi”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com