KHỞI NGUỒN

Ðức Phật ra đời vì muốn cho chúng sanh thoát khỏi "Việc lớn Sanh Tử", nên Ngài dạy diệu pháp Vô thượng pháp môn Tịnh Ðộ. Có thể nói, Bản Hoài một đời thuyết pháp của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đều nhằm trong pháp môn tịnh độ, vì Pháp Môn này độ hết các cơ, trùm khắp các giáo. Người niệm Phật căn cơ thấp có thể dùng tin nguyện mà được mang nghiệp vãng sanh, còn Bậc thượng căn nếu hồi hướng Lạc Bang mau được viên thành giác Ðạo. Nương theo Từ lực của Phật so với Tự lực chỗ khó dễ thấy rõ ràng như một tảng đá lớn nhờ lên thuyền mà dễ qua sông, hạt cát tuy nhẹ rớt xuống đáy ao vẫn nằm nguyên tại chỗ. Vì thế, Bồ Tát Thiên Thân, một Ðại Luận Sư và cũng là Tổ Sư của Tông Pháp Tướng căn cứ vào kinh Vô Lượng Thọ làm Nguyện Vãng Sanh Kệ Luận, chỉ rõ năm phương pháp Tu Hành chắc được vãng sanh để cho người tu Tịnh Ðộ đời sau làm y cứ.

Trong Vãng Sanh Luận, Tổ Thiên Thân đã chỉ rõ phương pháp Lễ Bái, Tán Thán, Tác Nguyện, Quán sát và Hồi Hướng và Ngài Thái Hư Ðại Sư Giảng yếu chỉ thẳng Ðại Thệ Nguyện của Phật A Di Ðà và chỗ triệt để của Bồ Tát Thiên Thân, nếu không phải là bậc thấu triệt Tâm Phật, được vô ngại biện tài như Ngài Thái Hư thì không ai có thể làm nổi.

Pháp môn tịnh độ từ xưa nay vốn là nơi quy thú của các pháp môn, vì thế, ở hội Hoa Nghiêm các bậc đẳng giác Bồ Tát còn lấy mười Ðại Nguyện Hồi hướng vãng sanh. Các bậc Tông Sư như Long Thọ, Mã Minh là tổ Thiền Tông , Trí Giả Ðại Sư là Thiên Thai Tông, Từ Ân Ðại Sư là tổ của Hoa Nghiêm Tông, Vĩnh Minh Thọ Thiền Sư cháu đích tôn của dòng Pháp Nhẫn, tất cả các vị đều dạy người thực hành và tự thực hành đồng nguyện sanh về thế giới Cực Lạc.

Từ đó, chúng ta thấy những người chấp chuyên vào Tự lực không nhờ vào Phật lực sẽ mất nhiều lợi ích lớn, vì đây là phương tiện Tối thắng của vị Trưởng giả muốn cho tất cả các con thoát khỏi nhà lửa ba cõi mà mở bày, vì người được vãng sanh là thoát ra nhà lửa được về cõi Cực Lạc an vui. Khi về được cõi ấy rồi thì đầy dẫy thắng duyên, chim nói pháp, nước theo kinh, bạn là Bồ Tát Bất Thối, thân gặp Phật A Di Ðà, nghe Phật nói pháp chứng quả Vô Sanh, viên mãn quả vị Vô thượng Bồ đề.

Với ngòi bút lưu lợi của Thái Hư Ðại Sư đã làm những lời Kệ Nguyện của Bồ Tát Thiên Thân thêm sáng rực như một bó đuốc dẫn đường đến cõi Phật An Vui. Nhận thấy đây là một Phương Pháp Tu Tập để được Vãng Sanh vô cùng Quý Báu, thật dễ làm và chắc chắn đi đến thành công, nên dù thời gian có eo hẹp chúng tôi cũng cố gắng phiên dịch ra Việt ngữ để Tịnh Ðộ pháp ngữ được lưu thông. Chúng tôi Chân Thành giới thiệu đến quý Phật tử Phương Pháp Thiết yếu của người muốn Vãng sanh Cực Lạc.
Hồng Nhơn cẩn bút.
---o0o---
A. THÍCH ÐỀ
1. Ðề Luận

Vãng sanh Tịnh Ðộ Luận nguyên tên là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Ðề Xá Nguyện Sanh Kệ. Luận có 2 loại: Tôn Kinh Luận và Thích Kinh Luận. Tôn Kinh luận là Chư Tổ dựa vào ý kinh tự lập ra luận. Thích Kinh luận là các Tổ cứ y theo kinh văn giải thích thành luận. Bộ Luận Vãng Sanh Tịnh Ðộ này là Tôn Kinh Luận do đó luận cũng chính là Ðề Kinh.

Kinh Vô Lượng Thọ là một trong 3 bộ kinh cốt yếu lập thành tông Tịnh Ðộ là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Ðà và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Luận này dựa vào kinh Vô Lượng Thọ lập nghĩa nên được gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Luận. Vô Lượng Thọ là hồng danh của Ðức Phậ, tiếng Phạn là AMITABHA, dịch âm là A Di Ðà có nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, nhưng chủ yếu là Vô Lượng Thọ, nên hầu hết các kinh đều dịch Vô Lượng Thọ..

Chữ Vô có nghĩa là Không, chữ Lượng có nghĩa là số lượng. Riêng về chữ Lượng có 4 loại:
1. Không gian lượng là chỉ thể tích trong không gian, những vật có chiều rộng, dài, cao chiếm một khoảng trong không gian. Toán Kỷ Hà Học đã tính được lượng này.
2. Thời lượng: Tính bằng thời gian lấy sát na làm đơn vị đến giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm…gọi là thời lượng.
3. Trọng lượng: Tính sức nặng đơn vị nó là lượng, cân, ký, tấn…
4. Số lượng: Tính từ số 1 đế A Tăng Kỳ số. Thế nào gọi là vô lượng? Phàm cái gì có thể dùng lời mà nói được , dùng ý thức có thể suy nghĩ đều thuộc về 4 lượng tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết tất cả tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết tất cả tướng nói năng, lìa hết tướng tâm có thể duyên. Thực mà nói: Dứt cả lời nói, tâm làm đều tịch diệt, tình cảnh không thể nghĩ bàn gọi là Vô Lượng.
Thọ là sống lâu. Nếu lấy trăm ngàn tuổi tính đến kiếp số của sự thọ mạng, bất cứ cái gì còn tính được đều không thể gọi là vô lượng. Cái gì không thể tính lấy ngôn ngữ, tư tưởng có thể suy gọi là vô lượng.

KINH: Phàm những lời Phật nói ra hoặc đệ tử nói ra mà Phật ấn khả gọi đó là kinh. Kinh còn gọi là Khế Kinh tức là trên khế hợp với lý Phật, dưới khế hợp căn cơ chúng sanh. Các Bồ Tát y theo Tôn yếu mà sáng tác, hoặc chú thích thuật tác thoe Kinh gọi là Luận. Lúc Phật còn ở trong đời, hằng này sinh hoạt với đệ tử, quy định những điều luật để đệ tử thực hành gọi là Luật.

Vô Lượng Thọ là đề Kinh, Ưu Bà Ðề Xá nghị luận nghĩa lý, mục đích phát huy hết yếu nghĩa của Kinh gọi là Luận. Trong luận này chia làm 2 phần. Trước tiên Ngài làm kệ để pháp nguyện vãng sanh, kế đó Ngài làm Luận để giải thích rõ ràng văn kệ nên cũng gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Nguyện Sanh Kệ Luận.

TỊNH ÐỘ: Trong kinh dạy: "Hư không vô biên thế giới vô số". Ngày nay, những nhà thiên văn đã xử dụng kính viễn vọng có thể thấy được Hỏa tinh, trong ấy có người đang sống và các hành tinh vô số trong vũ trụ. Trong vô số thế giới ấy, đương nhiên sẽ có thế giới khổ, vui, nhơ, sạch, tốt xấu nhiều thứ sai biệt. Những thế giới trong sạch an vui, tốt đẹp trang nghiêm được gọi là Tịnh Ðộ. Từ đó suy ra các nhà thiên văn học đều dễ dàng công nhận.

Thế giới Ta bà là thế giới đau khổ, người luôn bị khổ đau ép ngặt. Vì thế, Ðức Thích Ca Mâu Ni đặc biệt chỉ dạy cho chúng sanh một thế giới thanh tịnh vô cùng an lạc và chỉ cho mọi người phương pháp tu để được vãng sanh về cõi tịnh ấy, vì nếu tu nghiệp nhơn tịnh độ sẽ có quả tịnh độ. Ngài dạy: Từ đây hướng về phía Tây, cách mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Bằng nhãn quang và trí tuệ, Ngài thấy chắc có thế giới này, nên dạy khuyên chúng sanh trong thế giới tai nạn khổ ách cõi Ta bà này hãy phát tâm cầu sanh về thế giới Cực Lạc, siêng tu tịnh nghiệp chắc chắn được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Ðộ.

Căn cứ vào Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mà nói, Cõi Phật cứu kính thanh tịnh là Chơn Pháp Giới lìa tất cả tướng, lìa tất cả phân biệt, ngôn thuyết. Chơn pháp giới này trùm khắp cả chỗ, mọi người có đủ nhưng không hiển hiện được vì bị ngăn ngại phiền não nghiệp chướng. Dú nói có mặt khắp tất cả chỗ nhưng không tương ưng nên phải ở trong cuộc sống huyễn mộng sanh tử không dứt. Nếu có thể phá được nghiệp báo phiền não huyễn mộng, một niệm giác ngộ là một niệm Tịnh Ðộ tương ưng. Ðó chính là "Vãng sanh không chỗ sanh và sanh không có chỗ sanh". Ðó là nghĩa của vãng sanh vậy.

Nếu căn cứ vào Tục Ðế mà nói vãng sanh là "Vãng thì quyết định vãng, sanh thì quyết định sanh". Do nhơn tu Tịnh nghiệp nên khi lâm chung lìa cõi ta bà này vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu họp Chơn Ðế và Tục Ðế mà nói vãng sanh là "Vãng thì không chỗ sanh, sanh thì quyết định sanh" vì người vãng sanh căn cứ trên báo thể tức A Lại Da thức. Năng lực A Lại Da thức trùm khắp tất cả chỗ, sanh vào cõi này là do nghiệp lực năng sanh thuần thục mà báo thể cõi này thành tựu. Như thế, được sanh tịnh độ là do nghiệp thành thục tức là Báo thể sanh Tịnh Ðộ thành thục. Nên nói: "Vãng thì không có chỗ vãng, sanh thì quyết định sanh”.

Lại nữa, chúng sanh nhận báo thân ở cõi Ta bà khi chưa bỏ thân mạng, nếu bỏ thân mạng này vãng sanh về cõi Cực Lạc là "vãng thì có chỗ vãng". Nhưng năng sanh sở sanh không thực tại, xét cho kỹ thì từ chỗ nào sanh về cõi Ta bà, từ chỗ nào sanh về Cực Lạc? Nếu từ Tự sanh, lúc chưa sanh tự thể nó là không làm sao có thể tự sanh? Nếu đó là tha sanh thì dối tự nói tha sanh vì tự mình đã không sanh người khác làm sao sanh? Nếu không có cái nhơn sanh thì tất cả đều Vô sanh. Trong Trung luận nói: "Các pháp không tự sanh, cũng không từ cái khác sanh, không cùng đều là nhơn nên nói vô sanh", nên có thể nói: "Vãng tì có chỗ vãng mà sanh thì không có chỗ sanh". Vì thế bốn trường hợp trên không nên thiên chấp. Quả nếu có thể lìa chấp thời có thể tùy cơ phương tiện mà nói đó.

2. Người tạo Luận

Luận này do Bồ Tát Thiên Thân tạo, Ngài có hai người anh là Bồ Tát Vô Trước và Tôn Giả Sư Tử đều là bậc Luận Sư nổi tiếng đương thời. Ngài tạo rất nhiều Luận được người đời tôn xưng là "Thiên Bộ Luận Sư". Ban đầu Ngài học theo Tiểu Thừa, tạo ra 500 bộ Luận Tiểu Thừa, sau bỏ Tiểu Thừa sang Ðại Thừa cũng tạo ra 500 bộ Luận Ðại Thừa. Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận này là một trong 500 Bộ Luận Ðại Thừa ấy.

BỒ TÁT nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa là Giác Hữu Tình, là những bậc đã chứng được quả chánh biến tri, quyết tâm độ thoát tất cả chúng hữu tình gọi là Bồ Tát. Công hạnh Bồ Tát có gần xa, công hạnh có sâu cạn. Vị Thập Tín là Sơ phát tâm Bồ Tát. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Vị gọi là Tam Hiền Bồ Tát. Bồ Tát Thiên Thân đã chứng Tứ Gia Hạnh Vị thuộc về Bồ Tát Tam Hiền.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra ở xứ Ấn Ðộ, những lời thuyết giáo được ghi lại bằng Ấn văn. Ðến đời Nguyên Ngụy, Ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch sang Hoa Văn và Ngài Thái Hư Ðại Sư giảng chỗ Yếu Nghĩa.
---o0o---
B GIẢNG KỆ VĂN

Trong Luận này có chia làm hai phần là Kệ Văn và Luận Văn. Kệ Văn là những bài kệ được quy định chữ và vần điệu. Trọng tâm của Kệ văn là Luận văn là dạy những cương lĩnh của năm môn tu để được vãng sanh về Cực Lạc. Vì thế, Luận này còn gọi là Luận Năm môn thực hành để được vãng sanh Tịnh Ðộ.

1. Kinh Pháp Chủ Giải Ba Môn
KỆ VĂN: ÐỨC THẾ TÔN! CON MỘT LÒNG QUY MẠNG, VÔ NGẠI QUANG Như Lai, KHẮP CẢ TRONG MƯỜI PHƯƠNG, NGUYỆN SANH VỀ NƯỚC AN DƯỠNG.
Con một lòng quy mạng là tỏ lòng cung kính với vị pháp chủ. Kinh là những lời kiết tập do chính đệ tử Phật nghe và ghi lại, còn luận là căn cứ vào kinh mà tạo ra. Vì kinh do Phật nói ra nên nhà tạo luận trước phải Kỉnh Phật. Nói Quy mạng là diễn tả sự cung kính cùng tột hết lòng nương về Ðức Phật.

Con Quy mạng Vô Ngại Quang Như Lai khắp mười phương thuộc về Lễ Bái Môn. Vô Ngại Quang Như Lai tức là Phật A Di Ðà. Nói đến Phật A Di Ðà tức là tán thán công đức Quang vô lượng và Thọ vô lượng là Tán Thán Môn.

Như Lai: như là Chơn như thật tánh, Bậc chứng Chơn Như Thật Tánh thành Vô thượng giác. Lai là đến độ thoát tất cả chúng sanh. Từ chơn như thật tánh mà đến là không đến (lai) mà đến (lai) gọi là Như Lai.

Nguyện sanh Nước An Lạc là lòng phát nguyện mong cầu được vãng sanh về nước Cực Lạc. Ðó là Tác Nguyện Môn. Lễ bái thuộc về Thân Nghiệp, Tán Thán thuộc Khẩu Nghiệp, Nguyện Sanh thuộc Ý Nghiệp. Nếu ba nghiệp được thanh tịnh, đồng Phật sang Tây phương.

2. Y Kinh Nói Về Quán Sát Môn
KỆ VĂN: CON Y THEO KINH GIÁO, TƯỚNG CÔNG ÐỨC CHƠN THẬT, NÓI TỔNG TRÌ KỆ NGUYỆN, CÙNG PHẬT GIÁO TƯƠNG ƯNG.

Nói về tướng công đức chơn thật không phải do chỗ mình thấy mà y theo lời nói của Phật để diễn đạt. Kinh nói cho đủ là khế kinh là những lời nói khế hợp với chơn lý và khế hợp với căn cơ tức chỉ phần trường hàng trong 12 thời thuyết giáo. Tướng công đức chơn thật là chỉ công đức chơn thật của chư Phật. Ở đây Ngài Thiên Thân y trong kinh nói công đức tướng của Phật A Di Ðà, công đức này do trong kinh, Ðức Phật Thích Ca nói ra quả thật Phật A Di Ðà có công đức chơn thật không hư dối, vì Phật Thích Ca luôn luôn nói đúng, nói thật, không hề giả dối. Như thế, ta biết chắc rằng cõi Tịnh Ðộ trang nghiêm do tướng công đức và Quả vô lậu chuyển thành. Vì lìa các tướng điên đảo nhiễm ô là công đức vô lậu và lìa tất cả tướng tức tất cả tướng nên gọi là chơn thật tướng, trong Kệ nói tướng công đức là tương ưng với giáo pháp Phật không chút sai trái.

KỆ VĂN: XÉT TƯỚNG THẾ GIỚI KIA, VƯỢT XA HẲN BA CÕI

Quán sát môn chính là quán về công đức y báo, chánh báo trang nghiêm quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Ðà. Trong đó, trước Quán sát tướng công đức y báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc gồm có 17 thứ công đức.

1. Thanh tịnh công đức thà
nh tựu: là nói cõi Cực Lạc thế giới ở Phương Tây tướng thanh tịnh của nó cứu cánh như hư không , rộng lớn vô biên, thanh tịnh các xa tam giới không kể xiết.

KỆ VĂN: CỨU KÍNH NHƯ HƯ KHÔNG , RỘNG LỚN KHÔNG NGẰN MÉ.

2. Lượng Công đức thà
nh tựu: Là nói vô lượng thành tựu của thế giới Cực Lạc như hư không , rộng lớn không ngằn mé.
KỆ VĂN: CHÁNH ÐẠO LÀ TỪ BI, SANH THIỆN CĂN XUẤT THẾ.
3. Tánh công Ðức thành tựu: nói về nhơn tánh của thế giới Cực Lạc là do công đức vô lậu thanh tịnh xuất thế gian thành tựu không phải năng lực hữu lậu bất thiện nhiễm ô mà thành.
KỆ VĂN: ÁNH SÁNG SẠCH ÐẦY KHẮP, NHƯ NHẬT NGUYỆT CÙNG SOI.
4. Hình tướng công đức thành tựu: Nói hình tướng của thế giới Cực Lạc không có tướng tối tă
m, luôn luôn có ánh sáng thanh tịnh như mặt trăng mặt trời cùng soi sáng.
KỆ VĂN: CÁC THỨ TÁNH TRÂN BỬU, ÐẦY ÐỦ DIỆU TRANG NGHIÊM.
5. Các thứ sự công đức thành tựu: Nói đầy đủ bảy báu như
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não cho đến trăm ngàn vô lượng trân bửu là thành tựu công đức trang nghiêm vô lượng vi diệu thanh tịnh.
KỆ VĂN: ÁNH VÔ CẤU RỰC RỠ, SOI SẠCH HẾT THẾ GIAN!
6. Công đức diệu sắc thà
nh tựu: Ánh sáng vô cấu rực rỡ là nói ánh sáng sắc tướng vô cấu của thế giới Cực Lạc tây phương có thể chiếu khắp tất cả thế gian.

KỆ VĂN: CỎ TÁNH BÁU CÔNG ÐỨC, MỀM MẠC MỌC HAI BÊN, NGƯỜI CHẠM SANH VUI LỚN, HƠN CA THI LÂN ÐÀ.

7. Xúc công đức thà
nh tựu: Ca Thi Lân Ðà là một thứ cỏ rất mềm mại, mịn màng ở Ấn Ðộ, người khi chạm vào cỏ ấy sanh lòng vui vẻ êm dịu, khi va chạm vào cỏ bửu tánh công đức ở thế giới Cực Lạc tây phương sẽ sanh lòng vui vẻ êm dịu còn hơn nhiều khi và chạm vào cỏ Ca Thi Lân Ðà.

KỆ VĂN: HOA BÁU NGÀN MUÔN THỨ, ÐẦY ÐỦ Ở TRONG AO, GIÓ NHẸ THỔI CÁNH HOA, ÁNH SÁNG CHIẾU CHÓI LỌI, CÁC CUNG ÐIỆN LẦU GÁC, THẤY MƯỜI PHƯƠNG KHÔNG NGẠI, NHIỀU CÂY MÀU SẮC LẠ, HÀNG BÁU VÂY GIÁP VÒNG. BÁU VÔ LƯỢNG KẾT NHAU, THÀNH LƯỚI BỦA HƯ KHÔNG , CÁC THỨ RUNG THÀNH TIẾNG, VANG RA TIẾNG PHÁP MẦU.

8. Nói
về công đức trang nghiêm thành tựu: bốn câu đầu công đức trang nghiêm thành tựu ở dưới nước, bốn câu giữa nói công đức trang nghiêm thành tựu ở trên đất, bốn câu cuối nói công đức trang nghiêm thành tựu ở trên không.
KỆ VĂN: MƯA HOA Y TRANG NGHIÊM, VÔ LƯỢNG HƯƠNG XÔNG KHẮP.
9. Nói công đức rưới hoa thành tựu: Nói ở trong không trung rưới vô lượng hoa y để trang nghiêm đồng thời có vô lượng hương xông khắp tất cả pháp giới.

KỆ VĂN: TRÍ PHẬT NHƯ MẶT NHẬT, TRỪ SI ÁM THẾ GIAN.

10. Nói công đức ánh sáng thà
nh tựu: Ở đây nói trí huệ quang minh của Phật thanh tịnh như mặt nhật, không phải chỉ phá những hắc ám của nội tâm tất cả chúng sanh.
KỆ VĂN: TIẾNG PHẠM VANG SÂU XA, MƯỜI PHƯƠNG NGHE LỜI MẦU.
11. Nói Thinh công đức thành tựu: ở đây chỉ lời nói của Phật rất vi diệu, khắp mười phương đều nghe, không tìm được ngằn mé.
KỆ VĂN: PHẬT DI ÐÀ CHÁNH GIÁC, CHÁNH PHÁP KHÉO GIỮ GÌN.
12. Nói chủ công đức thà

nh tựu: Phật A Di Ðà là bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Phật Di Ðà là giáo chủ của Cực Lạc thế giới là vua của chánh Pháp.

KỆ VĂN: CHÚNG TỊNH HOA NHƯ LAI, HOA CHÁNH GIÁC HÓA SANH.
13. Nói quyến thuộc công đức thành tựu: Có chủ tức có bạn, đây nói các Ð
ại Bồ Tát và chúng sanh vãng sanh trong chín phẩm là bạn của Phật A Di Ðà, đều do hoa chánh giác của Phật A Di Ðà mà biến hóa ra.

KỆ VĂN: ƯA THÍCH PHÁP VỊ PHẬT, THỰC PHẨM THIỀN CHÁNH ÐỊNH.

14. Nói thọ dụng công đức thà
nh tựu: Bình thường nói pháp hỉ sung mãn tức là nói đến sự ưa thích mùi vị Phật Pháp. Lấy việc vui Thiền làm thức ăn, tức chỉ trong lúc ngồi thiền lấy tam muội làm thức ăn là chỉ người ưa thích Phật pháp được nhiều thú vị, lấy pháp vị để nuôi dưỡng huệ mạng mình. Thiền tiếng Phạn là Thiền Na. Trung Hoa dịch là Tịnh Lự nghĩ là dẹp sạch hết suy nghĩ. Tam muội là tiếng Phạn, Trung Hoa là Ðẳng Trì nghĩa là bình đẳng an giữ tâm mình làm cho xa lìa hôn trầm, trạo cử, vọng tưởng, thông thường gọi là Chánh Ðịnh.

KỆ VĂN: LÌA PHIỀN NÃO THÂN TÂM, NHẬN VUI LUÔN KHÔNG DỨT.

15. Nói không có các nạn công đức thà
nh tựu: Nói chỗ thọ của thân tâm không có tất cả khổ nạn, nên trong kinh A Di Ðà nói: "Chỉ nhận các điều vui không có các điều khổ nên gọi là Cực Lạc".

KỆ VĂN: CÕI ÐẠI THỪA THIỆN CĂN, ÐỀU KHÔNG CÓ CHÊ BAI, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, GIỐNG NHỊ THỪA CHẲNG SANH.

16. Công đức đại nghĩa môn thành tựu: Trong đây nói người nữ, căn thiếu v

à nhị thừa không được vãng sanh. Ý nói chúng sanh đã sanh về thế giới Cực Lạc tây phương không có tướng người nữ, căn thiếu và nhị thừa. Người không hiểu nghĩa này giải sai nói các người nữ không được vãng sanh tây phương, như thế các người nữ niệm Phật nhọc sức mà không có lợi ích gì? Nên biết phàm người sanh đến thế giới Cực Lạc tây phương đều có đủ 32 tướng của bậc Ðại Bồ Tát nên không có tướng người nữ, căn thiếu và nhị thừa không đủ phước báu; chứ không phải nói người nữ, căn thiếu và nhị thừa ở cõi này hoặc ở phương khác không được vãng sanh về Cực Lạc! Ðã sanh về Cực Lạc tuy có phàm phu, nhị thừa, căn thiếu khác nhau, nhưng tất cả đều tiến vào Ðại thừa rốt ráo thành Phật. Vì thế, Thế giới Cực Lạc đều do vô lậu thiện căn Ðại thừa mà thành tựu, vì đây là cảnh giới thiện căn của Ðại Thừa, nên không thể có thể tánh người nữ, căn thiếu và nhị thừa, mà danh xưng người nữ, căn thiếu, nhị thừa cũng không có, chỉ có danh xưng của Bồ Tát Bất Thối mà thôi.

Không phải chỉ có Phật A Di Ðà có Tịnh Ðộ mà chư Phật Bồ Tát ở mười phương đều có tịnh độ. Như thế, tịnh độ là điểm cưú cánh của chư Phật. Vì cớ nào mà các Ngài an lập tịnh độ? Ðức Phật Thích Ca đã căn cứ vào căn cơ nào để nói pháp môn Tịnh Ðộ? Ðây là vấn đề người tu tịnh độ cần biết.

Ở đời có người nhơn ác bị ác báo hiện tiền nên kinh hoàng sợ sệt và cầu sanh tịnh độ; có người nhơn bị bức bách vì sinh hoạt, cơ hàn khốn khổ mà cầu sanh tịnh độ; có người nhơn bức não bởi các khổ già bịnh mà cầu sanh tịnh độ; tất cả đều do tâm lý lánh khổ tìm vui làm động cơ cầu sanh tịnh độ. Nhưng xét cho kỹ chư Phật an lập tịnh độ, đức Thế Tôn nói tịnh độ pháp môn, tuy có ý phụ là làm cho chúng sanh chán khổ thích vui, nhưng không phải là bản ý chính sáng lập và nói ra pháp môn tịnh độ. Bản ý chính của Ðức Phật là muốn an lập pháp môn chơn chánh pháp tâm Ðại Thừa của Bồ Tát mà nói ra. Chúng sanh phàm phu có tâm chán khổ tìm vui, lòng chỉ thích khoái lạc không muốn dứt trừ sinh tử, như nhàm chán khổ ở ba đường ác, muốn gìn giữ để được làm người không mất thân này, nhàm chán khổ ở cõi người muốn cầu sanh về cõi trời, nhàm chán khổ ở Dục giới cầu sanh về Sắc giới, nhàm chán Sắc giới cầu sanh về Vô sắc giới, chỉ dùng các pháp nhơn thiên thừa như Ngũ giới, Thập thiện, Bát định. Người giữ được năm giới có thể được sanh làm người không mất; tu thập thiện bát định được sanh về cõi trời, chư Phật cần gì an lập tịnh độ?

Ðức Phật Thích Ca nói ra pháp môn Tịnh Ðộ này vì Ngài thấy ba cõi như lao ngục, hàng nhị thừa như oan gia, sanh tử ở gần, muốn ra khỏi ba cõi dứt hẳn sanh tử, cần phải biết tam giới là khổ, chúng sanh bất tịnh, vô thường, vô ngã. Nếu y theo Tứ Niệm Xứ, khởi tu Tứ Chánh Cần, Bát Chánh Ðạo, Ba Mươi Bảy Pháp Bồ Ðề, tinh tấn cần tu, ở trong một đời tuy chưa được quả A la hán cũng có thể được quả Tu Ðà Hoàn, nhờ được quả Tu Ðà Hoàn vĩnh viễn không thối chuyển tuy vẫn còn chịu các khổ sanh tử phiền não; cũng không cần y theo pháp môn tịnh độ cầu sanh về tịnh độ, như các nước Tiểu Thừa Phật giáo Miến Ðiện Tích Lan chỉ cần cầu được quả A la hán, liễu sanh thoát tử, do đó các xứ Tích Lan, Miến Ðiện không có pháp môn tịnh độ này.

Từ đó suy ra, chư Phật an lập tịnh độ và đức Bổn Sư tuyên nói tịnh độ không phải vì phàm phu, nhị thừa, thực vì chúng sanh có căn tánh Ðại Thừa, người nghe Phật pháp không cầu có phước báu an lạc đời sau, không có ý muốn tự ra khỏi ba cõi khổ não sanh tử, mà vì người phát tâm Ðại Thừa độ thoát tất cả chúng sanh mà Ngài nói pháp môn này.

Phát tâm Ðại Thừa là người hiểu biết lý các pháp do nhân duyên sanh, biết tất cả pháp đều do nhân duyên sanh, vì pháp do các duyên sanh nên tất cả là tất cả pháp; chúng sanh do các duyên mà sanh nên một chúng sanh tức là tất cả chúng sanh, lìa tất cả chúng sanh ra không có cái ta nào khác. Nếu không làm cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo, tức là không có ông Phật riêng ta có thể thành. Do đó mà phát đại nguyện rộng độ hết tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo, quyết không lìa tất cả chúng sanh mà tự mình thoát khỏi sanh tử, vì chúng sanh tức là chính mình và chính mình tức là chúng sanh, không có chúng sanh và ta khác nhau (sóng & nước) nên gọi: "Không ngã tướng, không chúng sanh tướng, không nhơn tướng, không thọ giả tướng", không thể lìa ngoài chúng sanh mà mình được độ thoát. Bồ Tát dùng đồng thể không khác không hai với tất cả chúng sanh mà phát từ nguyện phổ độ tất cả chúng sanh.

Nhưng muốn thành mãn nguyện này nếu là người không chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác thì không làm được. Tuy người có nguyện này thực sự không có ngày thành tựu. Dù có đại bi tâm muốn độ hết thảy chúng sanh trong pháp giới, muốn độ vô số chúng sanh cần phải đoạn vô biên phiền não, tu học vô lượng pháp môn, thành tựu vô lượng phước đức trí huệ trang nghiêm viên mãn Phật quả cần phải qua ba a tăng tỳ kiếp, vào vô lượng thế giới, độ vô số chúng sanh, thực không phải khả năng của một chúng sanh có thể làm được. Trong Khởi Tín Luận nói: “Tín tâm đã thành tựu, vào chánh định tụ, cần trải qua mười ngàn Ðại Kiếp". Ðại Thừa Tín Tâm thành tựu còn khó như thế huống chi muốn chứng thành Phật Quả.

Thành Phật không phải là khả năng một đời, người đã phát tâm Ðại Thừa cần tu Lục Ðộ. Khi tu Lục Ðộ sẽ có nhiều nghịch duyên, nhiều thứ liên tục pháp hoại tâm Ðại Thừa, vây quanh toàn là những hiểm ách pháp hoại tâm Ðại Thừa mà mạng người thì ngắn ngủi, một khi vô thường đến, hoặc sanh lên cõi vui, hoặc đọa vào cõi khổ lại thêm bị ách nạn to lớn làm mê mất tâm Ðại Thừa, tâm bồ đề. Do nhiều thứ ác duyên như thế, Bồ Tát tuy đã phát tâm Ðại Thừa mà muốn gìn giữ cho không bị lui sụt thực không phải là chuyện dễ. Trong kinh dạy: "Chư Phật lúc nào cũng có trách nhiệm bảo vệ cho Bồ Tát".

Kinh Kim Cang nói: "Như Lai khéo hộ niệm các Bồ Tát." Bồ Tát đã phát tâm Ðại Thừa nhưng chưa có khả năng chẳng lui sụt, chư Phật đã dùng pháp từ bi nào để hộ niệm cho các Bồ Tát phát tâm Ðại Thừa thoát khỏi hiểm nạn lui sụt tam mất? Ðể hộ niệm Bồ Tát đã phát tâm Ðại Thừa khỏi bị lui sụt, chư Phật đã an lập quốc độ thanh tịnh trang nghiêm. Chư Bồ Tát có duyên với tịnh độ nào liền phát tâm sanh về tịnh độ ấy. Tuỳ theo chỗ phát nguyện, khởi lòng tin quyết định, tâm chuyên nhất thì khi lâm chung tùy theo nguyện mình mà vãng sanh về tịnh độ, nghe pháp được Bất thối, rồi trở lại khắp độ tất cả chúng sanh. Nếu chư Phật không an lập tịnh độ để các Bồ Tát mới phát tâm nương về, một khi tâm bị lui sụt thì những công đức tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ sẽ tiêu tan vô ích. Vì thế, Bồ Tát phải lấy tịnh độ làm chỗ an trụ mới không bị bất thối thất tâm Ðại Thừa bồ đề và khỏi uổng mất công trước. Ðó là bản ý của Phật A Di Ðà và chư Phật trong mười phương thành lập tịnh độ và cũng là chơn nghĩa để Phật Thích Ca Mâu Ni nói pháp môn tịnh độ. Người tu tịnh độ cần phải hiểu rõ yếu nghĩa này.

KỆ VĂN: CHÚNG SANH MUỐN AN VUI, TẤT CẢ ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ, NÊN CON NGUYỆN VÃNG SANH, VỀ NƯỚC PHẬT DI ÐÀ.

17.Nói công đức tất cả chỗ cầu mong đều được thành tựu: Ðây nói thế giới Cực Lạc tây phương muốn có là có đủ hết, nếu chúng sanh muốn được an vui, tất cả mong muốn đều có đủ. Hai câu cuối tác giả kết luận bằng cách phát nguyện vãng sanh.

KỆ VĂN: VÔ LƯỢNG ÐẠI BỬU VƯƠNG, ÐÀI HOA TỊNH VI DIỆU.

Mười bảy công đức ở trên là quán về công Ðức Phật độ, đó là Y Báo trang nghiêm. Ðoạn này quán sát về công Ðức Phật, công đức Bồ Tát là Chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Y theo luận văn sau, Quán công Ðức Phật gồm có 8 thứ:

1.Tòa trang nghiêm: Ðây nói về lấy vô lượng Ðại Bảo Hoa Vương làm thành Ðài Hoa vi diệu thanh tịnh.
KỆ VĂN: MỘT TẦM ÁNH TƯỚNG HẢO, SẮC TƯỢNG HƠN QUẦN SANH.
2.Thân trang nghiêm: Phật Di Ðà dịch là ánh sáng trùm khắp vô lượng. Trong đây nói một tầm (2m50) là tùy theo cõi này, chúng sanh quan sát ánh sáng của đức Thích Ca mà nói đó.
KỆ VĂN: TƯỚNG NHƯ LAI VI DIỆU, TIẾNG PHẠM VANG MƯỜI PHƯƠNG.

3.Miệng trang nghiêm: Ý nói lời nói từ miệng của Như Lai Vô Lượng Thọ phát ra, tiếng vi diệu vang khắp 10 phương.

KỆ VĂN: ÐỒNG ÐẤT NƯỚC GIÓ LỬA, HƯ KHÔNG KHÓ PHÂN BIỆT.
4.Tâm trang nghiêm: Ý nói tâm Phật bình đẳng cũng như ngũ đại không có phân biệt.
KỆ VĂN: TRỜI NGƯỜI CHÚNG BẤT ÐỘNG, SANH BỂ TRÍ THANH TỊNH.

5.Chúng trang nghiêm: Ý nói tất cả chúng bất động, trời người đến bể trí thanh tịnh của Phật A Di Ðà mà sinh ra.

KỆ VĂN: NHƯ VUA NÚI TU DI, CAO TỘT KHÔNG GÌ HƠN.
6.Thượng thủ trang nghiêm: Ý nói những bậc thượng thủ bạn lữ của Phật A Di Ðà đều cao tột thắng diệu như nuí Tu Di, không một ai có thể hơn được.
KỆ VĂN: CHÚNG TRƯỢNG PHU TRỜI NGƯỜI, VI NHIỄU KÍNH CHIÊM NGƯỠNG.

7.Chủ trang nghiêm: Ở đâytù bạn chỉ rõ Chủ. Ý nói Phật A Di Ðà tất cả nhơn thiên đều cung kính, vi nhiễu tán thán công đức của Pháp Chủ.

KỆ VĂN: QUÁN BỔN NGUYỆN LỰC PHẬT, AI GẶP ÐỀU LỢI ÍCH, LÀM CHO MAU ÐẦY ÐỦ, CÔNG ÐỨC BIỂN BÁU LỚN.

8.Không dối làm trụ trì trang nghiêm: Ý nói phàm người nào thấy ánh sáng Phật, nghe danh hiệu Phật, đều có thể mau thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Không có người nào gặp ánh sáng Phật, nghe danh hiệu Phật mà không được thành Phật.

KỆ VĂN: NƯỚC AN LẠC THANH TỊNH, THƯỜNG CHUYỂN XE VÔ CẤU, NHẬT HOÁ PHẬT BỒ TÁT, TRỤ TRÌ NHƯ TU-DI. ÁNH TRANG NGHIÊM VÔ CẤU, MỘT NIỆM VÀ MỘT THỜI, CHIẾU KHẮP CÁC HỘI PHẬT, LỢI ÍCH CÁC QUẦN SANH. RƯỚI NHẠC TRỜI HOA Y, HƯƠNG MẦU ÐỂ CÚNG DƯỜNG, KHÔNG CÓ LÒNG PHÂN BIỆT. DÙ THẾ GIỚI KHÔNG CÓ, CÔNG ÐỨC BÁU PHẬT PHÁP, TA ÐỀU NGUYỆN VÃNG SANH, CHỈ PHẬT PHÁP NHƯ VẬY.

Y theo luận văn ở sau nói: Bồ Tát có bốn thứ tu hành chính yếu để thành tựu các công đức. Bài tụng đầu (4 câu) nói hóa thân của Bồ Tát trùm khắp mười phương mà báo thân như núi Tu Di thường trụ không lay động, có nghĩa là các Ngài ở trong một cõi Phật thân không lay động mà có thể độ khắp chúng sanh ở mười phương.

Bài tụng 2 (4 câu) nói về ứng hóa thân của Bồ Tát ở trong tất cả thời gian chỉ dùng một tâm niệm phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp mười phương lợi lạc hữu tình.

Bài tụng 3 (4 câu) nói Bồ Tát dùng các thiên nhạc, rưới hoa, hương, y phục, cúng dường tất cả thế giới, tất cả chư Phật không còn thừa, như sự rộng rãi cúng dường Bồ Tát Phổ Hiền. Kinh A Di Ðà cũng nói: "Ðều dùng y kích, đựng các hoa báu cúng dường muôn ức Phật khắp trong mười phương, đúng giờ ăn lại trở về nước mình ăn cơm kinh hành."

Bài tụng thứ 4 (4 câu) bài này nói không phải những thế giới có Phật, Bồ Tát mới trên cầu làm Phật, dưới dạy khắp chúng sanh, mà đến những thế giới không có Phật, các Ngài vẫn giác ngộ dẫn dắt chúng sanh như 32 ứng thân của Bồ Tát Quan Thế Âm. Ngẫu Ích đại sư dạy: "Có người hỏi tu hạnh Bồ Tát có những nguyện gì?" Ngài đáp: Có 2 điều nguyện – 1) Nguyện đem công đức này hồi hướng vãng sanh tịnh độ; 2) Nguyện sanh tịnh độ rồi, thành tựu vị Bất Thối liền vào địa ngục độ tất cả chúng sanh.

Theo những ý trên, người tu tịnh độ nên dùng tâm địa phàm phu lánh khổ tìm vui, tâm nhị thừa tự cho là đủ để cầu sanh tịnh độ thì không cùng pháp môn tịnh độ tương ưng. Tuy nói phàm phu ấy tâm đã hướng về Ðại Thừa mới đúng bản ý Phật nói pháp môn tịnh độ.

3.Thuật ý Kệ Tổng Kết Hồi Hướng
KỆ VĂN: CON LÀM LUẬN NÓI KỆ, NGUYỆN THẤY PHẬT DI ÐÀ, KHẮP VÌ CÁC CHÚNG SANH, VÃNG SANH NƯỚC AN LẠC.

Hai câu đầu thuyết minh tôn chỉ của việc làm kệ luận này, vì nguyện sanh tịnh độ mà làm kệ, nên gọi là Nguyện Sanh Kệ. Hai câu sau nói về Hồi Hướng Môn: Ý nói Bồ Tát vì lòng Ðại Bi mà tu Tịnh Ðộ, không phải muốn một mình được vãng sanh tịnh độ mà muốn tất cả chúng sanh đều được về thế giới An Lạc kia. Vì thế có được công đức niệm Phật, hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều được vãng sanh về tịnh độ.

Trước tác: Bồ Tát THIÊN THÂN

Giảng yếu: Ðại Sư THÁI HƯ
Dịch Việt: HỒNG NHƠN



Có phản hồi đến “Vãng Sanh Tịnh Độ Luận Giảng Yếu - Phần 1”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com