VẤN: Thưa Sư, con có vài thắc mắc về vấn đề nghiệp báo và phóng sanh. Con thường được giảng và kể cả các chùa cũng thường hay kêu gọi hùn phước phóng sanh vì đó là cách hoá giải nghiệp chướng. Nhưng khi chúng con phóng sanh đằng này thì người ta đã chặn sẵn lưới để bắt cá hoặc chim trở lại. Có thấy nói đó là nghiệp của các loại cứ bị bắt trở lại phóng sinh nhiều lần chúng thoát nạn, rồi mình cũng có phước giải nạn tiếp tục. Con cảm thấy giống hành xác các con vật quá, nhất là việc người ta tổ chức bán chim cá phóng sanh trước chùa rất ồn ào, ô nhiễm, mùi hôi thối bốc lên khá nhiều, gây bệnh cho người khác. Nếu con không phóng sanh mà dùng tiền để cúng chùa, làm việc từ thiện thì cái nào có lợi hơn và có phước hơn, giúp con giải được nghiệp quả. Con có đọc báo ở một số nơi tại nước ngoài, phóng sanh không đúng còn bị phạt, như họ phóng sanh vào vườn quốc gia, phóng sanh tôm hùm, cua huỳnh đế vào khu vực khác không phải nơi chúng sống vì gây phá huỷ môi trường, cân bằng sinh thái. Ở Việt Nam con chưa thấy và còn đọc có nơi họ thả cả rắn phóng sanh ra những nhà xung quanh. Vậy việc phóng sinh như vậy là có đúng không? Ai là người mới có thể đủ khả năng tổ chức phóng sinh. Con xin cảm ơn Sư.

ĐÁP:

Phóng sanh trong phạm vi tôn giáo Phật giáo, ở Việt Nam được xem như là một hạnh lành mà người Phật tử ai cũng có trách nhiệm phải thưc hiện để cứu vớt muôn lòai. Phóng sanh như là một chương trình sắp sẵn và bắt buộc người Phật tử ít nhiều đều có làm viện thiện nầy, không làm thì gọi là bất thiện. Phóng sanh trở thành đời sống văn hóa của người Phật tử Việt Nam, có ảnh hưởng rất lớn, sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Người Phật tử thường xuyên đi nghe quý Thầy thuyết pháp giảng kinh nói về công đức phóng sanh. Hãng phim nhựa chiếu phim “Chim Phóng Sanh” 2 tập, do nhà văn Nguyễn Hồ viết kịch bản, nhà văn Nguyễ Phi Hùng viết kịch bản phân cảnh, do Trần Quang Đại đạo diễn. Phim đã từng làm mưa làm gió trong một thời gian từ năm 1997, 1998, vừa giúp cho tài tử Phạn Văn Chơn tật nguyền vừa đưa con người trở lại nếp sống có đạo đức nhân bản. Con người tôn trọng con người, con người có một nếp sống bình đẳng như nhau trong từng thế hệ, không phân biệt giàu nghèo, tôn trọng tri thức của từng con người, dù là tật nguyền hay lành lặn, giàu sang hay nghèo hèn, đều có tinh thần đạo đức như nhau.

I . Ý nghĩa

Phóng sanh theo nghĩa đen là phóng thích mạng sống, nghĩa bóng là giải thóat những các nghiệp, cứu lấy mạng sống của chúng sanh sắp bị cuớp. Thế nào gọi là phóng sanh? Phóng sanh tức là nhìn thấy các loại chúng sanh có mạng sống đang bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại, kinh hoàng lúng túng, mạng sống trong phút giây nguy ngập, liền phát lòng từ bi tìm cách cứu chuộc. Như vậy tức là hành vi giải thoát, phóng thích, cứu lấy mạng sống.

Luận Đại Trí độ dạy rằng:“Trong tất cả các tội ác, tội sát sanh là nặng nhất. Trong tất cả các công đức, không giết hại là công đức lớn nhất.” Tại sao phải phóng sanh? Nói một cách đơn giản, phóng sanh tức là cứu chuộc mạng sống. Chúng ta đã tạo sát nghiệp nặng nề từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ác nghiệp này có hình tướng thì cho đến cùng tận hư không cũng không dung chứa hết.” Chúng ta ngay trong kiếp này tạo nghiệp giết hại chúng sanh quả thật đã không thể tính đếm được, huống chi là đã tạo trong nhiều đời nhiều kiếp!

Phóng sanh là hành động tha tội chết cho những loài sinh vật yếu hơn con người. Người đời thường hay hiếp đáp chúng sanh yếu hèn, hiếp đáp cho đến khi mình thấy mình hơn loài khác, dòng máu khác, những dòng giống khác với mình. Con người thương thì muốn thấy chúng sanh thấp hèn khác phải khiếp sợ trước mình, phải kêu la gào thét thảm thiết trước sức mạnh vô địch của mình, cuối cùng muốn các lòai yếu hèn phải chết trước mắt mình một các thỏa mãn. Con người muốn có sư van xin của người khác, sự van xin một cách yếu ớt, cuối cùng chết trước bàn tay sát thủ của chính mình gây ra mới hả dạ.

Con người thường thì muốn lấy mạng sống của chúng sanh khác, dùng thịt của chúng để ăn, ăn một cách thỏai mái, phung phí một cách trơ trẻn làm sao? Con người nhai ngấu nhai nghiến lấy thịt chúng sanh, sự thật thì khi mọi thức ăn ngon qua miệng rồi đã thành rác thải hôi nhơ, thật gớm ghiếc, khi nhả ra không còn dám ăn vào, dù đó là miếng thịt ngon nhất trần gian, miếng thịt mà con người thích thú nhất. Con người không chỉ ăn thịt chúng sanh một cách đơn giản, mà còn phải ăn sự căm tù hờn giận, chờ có điều kiện trả thù. Mà thật chúng sẽ trả thù bằng những cách khác như ôm bom liều chết, dội bom lẫn nhau, những cơn giết người tập thể...đó là hậu quả của hành trình ăn thịt thú.

Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sanh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sanh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn (Pháp sư Viên Nhân - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

Xuất xứ

Phong sanh là một hành động và nghi lễ truyền thống trong Phật giáo chỉ về cách thực hành để cứu súc vật, chim chóc, cá khỏi bị giết hại hay giam nhốt. Phóng sanh thường được hiểu đơn giản là khi gặp một con vật bị nạn, thì ra tay cứu thoát, hoặc nhìn thấy một hoặc nhiều con vật sắp bị giết, thì bỏ tiền ra mua để cứu sống chúng. Phóng sanh là trao cho sanh vật nào đó cơ hội tiếp tục sống

Tụng Kinh Phóng sanh

Tịnh pháp giới chơn ngôn

Án lam xoa ha (3 lần)

Tịnh tam nghiệp chơn ngôn

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

Dâng hương

Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương

Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương,

Sáng ngời, chiếu khắp mười phương.

Hiện Tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng dường.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông xá 1 xá)

Kỳ nguyện

Hôm nay, đệ tử chúng con, phụng trì di giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,một dạ chí thành, thiết lễ phóng sanh, ngưỡng mong Tam Bảo chúng minh và gia hộ cho .......................................... (tên người mua sinh vật) đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, mạng vị bình an, thân tâm thường lạc, và tất cả chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nam Mô Tiêu Tai Duyên Thọ Dược Sư Phật tác đại chứng minh. (3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)

Khen Phật

Đấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời, người

Cha lành chung bốn loài

Quy y tròn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (1 tiếng chuông, xá 1 xá)

Quán Phật

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn

Lưới đế châu ví đạo tràng

Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông)

(Đại chúng đồng tụng)

Đảnh lễ

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát,Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Cúng Phật

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười phương,

Quyện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,

Pháp thân ảnh hiện rành rành,

Chứng minh hương nguyện, tâm thành kính dâng.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)

Chú Đại Bi

NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần, 1 tiếng chuông)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông)

Kệ giải nghiệp

Chúng sanh đấy có bấy nhiêu

Lắng tay nghe lấy những điều dạy răn

Các người trước lòng trần tục lắm

Nên kiếp này chìm đắm sông mê

Bấy lâu chẳng biết tu trì

Gây bao tội ác lại về mình mang.

Sống đọa đày chết thường đau khổ

Lông, da, sừng có đỡ được đâu

Dù là bay trước lặn sau

Lưới dây tên bắn lưỡi câu thả mồi

Tát cạn bắt cùng hơi hun độc

Lúc đó dù kêu khóc ai thương

Nằm trên chốc thớt lạ thường

Hồn còn phảng phất nấu rang xong rồi.

Muôn phần chết nay ngươi cầm chắc

May sao nhờ các bậc thiện nhân

Cứu cho ngươi được thoát thân

Đến đây lại được nhờ ân Pháp mầu.

Vậy ngươi kiếp hồi đầu quy Phật

Cùng dốc lòng quy Pháp quy Tăng.

Chúng sanh quy y Phật

Chúng sanh quy y Pháp

Chúng sanh quy y Tăng (3 lần, 1 tiếng chuông)

Chúng sanh quy y Phật,

Không đọa địa ngục.

Chúng sanh quy y Pháp

Không đọa ngạ quỷ.

Chúng sanh quy y Tăng

Không đọa bàng sanh. (3 lần, 1 tiếng chuông)

Chúng sanh quy y Phật rồi

Chúng sanh quy y Pháp rồi

Chúng sanh quy y Tăng rồi (1 tiếng chuông)

Quy y rồi tội chướng sạch băng

Trí khôn sáng tỏ tưng bừng khắp nơi

Phát tâm tu, sau rồi được hưởng

Về Phương Tây vui sướng đời đời

Lên tòa sen hưởng thảnh thơi

Không hề luân chuyển yên vui tháng ngày.

Xin đại chúng ra tay cứu khổ

Phát tâm cầu Phật độ chúng sanh

Cùng nhau dốc một lòng thành

Cầu cho thoát khỏi trong vành trầm luân. (1 tiếng chuông)

(Đại chúng cùng tụng)

Niệm Phật

A Di Đà Phật thân sắc vàng,

Tướng tốt rực rỡ hào quang sáng ngời,

Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,

Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,

Ánh hào quang hóa vô số Phật,

Vô số Bồ Tát hiện ở trong,

Bốn mươi tám độ nguyện chúng sanh,

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,

Quy mạng lễ A Di Đà Phật,

Ở Phương Tây thế giới an lành.

Con nay xin phát nguyện vãng sanh,

Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

(Niệm mỗi câu dưới đây 3 lần, 1 tiếng chuông)

Nam Mô A Di Đà Phật

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

Chú nguyện

(Mang sinh vật ra ngoài, chủ lễ mật niệm)

Nguyện cho (các) ngươi (chim, cá, rùa...)

Đời đời tội diệt phước sanh, bỏ thân này,

Đời sau gặp gỡ Ngôi Tam Bảo tu hành, chứng quả Bồ Đề.

Sau khi đắc đạo rồi, ta sẽ độ cho ngươi được giải thoát.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát cứu thoát chúng sanh,

Kiếp mãn viên trần, chứng vi viên tướng, Bồ Đề Đạo độ chúng sanh.

(Niệm 3 lần, chủ lễ thả sinh vật. Trở lại bàn Phật để hồi hướng)

Hồi hướng

Phóng sinh công đức, hạnh nhiệm mầu

Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu

Tất cả chúng sanh trong pháp giới

Hướng về Phật Pháp tỏ Đạo mầu. (1 tiếng chuông)

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời

Nguyện cho con được đời đời

Hành Bồ Tát Đạo cứu đời lầm than.

Nguyện sanh Tây Phương, Cõi Lạc Bang

Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh

Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành

Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.

Nguyện đem công đức lành

Đệ tử hướng tâm thành

Cầu cho khắp chúng sanh

Đều chứng thành Phật quả. (1 tiếng chuông)

(Chỉ chủ lễ phục nguyện)

PHỤC NGUYỆN

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tác đại chứng minh. Hôm nay, chúng con một dạ chí thành, trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công đức, cầu nguyện cho Phật tử Tên.........................Pháp danh........................đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh an nhàn, thiên thượng nhân gian, đều thành Phật quả. (1 tiếng chuông)

(Đồng niệm)

Nam Mô A Di Đà Phật

Tam quy y

Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh

Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh

Thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh

Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

(trích Kinh Sách Phật - Kinh Tụng hằng ngày - Nghi lễ phóg sanh)

II. Theo quan niệm của Phật giáo, phóng sinh là cứu mạng người, kéo dài sự sống của họ hay sanh vật nào đó. Chuyện phóng sanh là thể hiện tâm từ bi của người thực hiện. Trong đạo Phật phát triển sau này, phóng sanh chỉ là một phương tiện để tu tập. Về mặt hình thức phóng sanh có nghĩa là mình đừng có cùm kẹp mà để cho các loài vật được tự do. Còn về nghĩa bóng, phóng sanh là phóng thích những cái tâm ô uế như cái tâm tham, cái tâm đố kị, hơn thua và thù hận ra khỏi con người mình để mình được tự do. Lễ phóng sanh là một nghi lễ xuất hiện sau này, ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc vì người Trung Quốc một thời coi trọng lễ nghi.

Các phong trào phóng sanh ở Trung Quốc

Bắt đầu từ triều đại nhà Tần, phong sanh được khơi nguồn từ kinh điển đại thừa, thịnh hành ở Trung Hoa, Tây Tạng, đến Nhật Bản. Về sau đến Triều Tiên, Việt Nam. Căn cứ của phóng sanh bắt nguồn từ kinh Phạm Võng Bồ tát giới, trong đó có nói: “mọi nguời ãy lấy từ tâm mà phóng sanh, vì tất cả đàn ông là cha của mình, tất cả đàn bà là mẹ của mình, mình chính từ đó mà sanh ra”. Vì thế tất cả chúng sanh là cha mẹ ta, nếu ăn thịt thú, thịt chúng sanh đôi khi ta ăn lầm thịt ông bà ta là vậy. Thứ hai là kinh Kim Quang Minh. Kinh Phạm Võng là chỗ dựa của kinh Kim Quang Minh, các kinh khác như Lục độ tập kinh. Sách Đại Đường Tây Vức ký nói về Tháp Nhạn, có vị Tỳ kheo tiểu thừa ăn thịt, ngày đó không ai cúng dường thịt để ăn, bỗng có bầy nhạn bay qua. Tỳ kheo nói thời cơ đến rồi, vừa nói xong bầy nhạn rơi xuống chết liền. Tỳ kheo đó nghĩ đây là Bồ tát cúng dường ta chăng? Xấu hổ quá, trong chùa không ai dám ăn thịt nhạn vì nhạn là Bồ tát. Từ đó trong chùa tin theo đại thừa, không ai dám ăn thịt chúng sanh gọi là tam tịnh nhục nữa. Ở Trung Quốc từ thời Bắc Tề Lương đến nay đều xiển dương phong trào phóng sanh, không ăn thịt thú. Nhà cầm quyền Đài Loan chủ trương định ký không ăn thịt, không giết hại súc vật để cầu mưa, xua đuổi tai họa. Võ Đế nhà Lương xuống chiếu cấm sát sanh để cúng tế. Nhà Sư Tuệ Tập đời nhà Luơng nguyện tự đốt hai cánh tay đi khắp nơi khuyên phóng sanh. Đơi Tùy đại sư Trí Khải chùa núi Thiên Thai phát động phong trào phóng sanh, giảng kinh Kim Quang Minh và kinh Pháp Hoa, gom tiền mua lương thực để nuôi cá phóng sanh. Vào đời nhà Đường, nhà Tống, nhà Minh, đời nào cũng phát triển việc phóng sanh.Thời hiện đại có sách của đại sư Hoằng Nhất, các tập tranh nói về “Bảo vệ cuộc sồng của loài thú”. Ngoài ra còn có Cư sĩ Thái Niệm Sanh đề xướng việc giới sát. Ở nước Mỹ và Đài Loan hiện nay có vườn để bảo vệ loài dã thú. Nhiều nơi lập vườn bảo vệ thú, chim cá sau khi thả, có người trông coi không cho bẫy rập bắt lại.

Những hành động phóng sanh cao cả

Nhà Vua Trần Nhân Tông là vị vua chiến thắng hai lần đáng đuổi quân Nguyên Mông, giữ an bờ cõi. Sau chiến thắng, nhà Vua cho thả tù binh, cho đốt bỏ những danh sách của những người tránh đương đầu với giặc hay theo giặc. Chính vì là người Việt Nam tránh đương đầu với người Việt Nam, nhà Vua là Phật tử nên có cơ hội vừa đánh thắng giặc Nguyên Mông vừa tha thứ những người yếu đuối đầu giặc, người đời sau tôn vinh ngài là Điều Ngự Giác Hoàng, có công thống nhất Phật giáo và đem Phật giáo hội nhập vào cuộc thế.

Nhà Vua Trần Nhân Tông, một con người đã thành tựu dù trong một hòan cảnh giới hạn của một đất nước, người ấy đã trở thành một con người cao cả của nhơn lọai. Người đó không chỉ là con người thành tựu của Việt Nam, mà còn là một con người thành tựu của thế giới. Nơi người ấy tích hợp được hai con người, con người lý tưởng của Việt Nam và con người lý tưởng của thế giới. Như vậy nhà Vua Trần Nhân Tông là một con người Việt Nam lý tưởng đến tầm mức thế giới và đã đóng góp bản sắc Việt Nam vào kho tàng trí tuệ và từ bi chung của nhơn loại.

Nhà vua ủy lạo phạm nhân

Vua Lý Thánh Tông, một ông vua Việt Nam có lòng quảng đại, nhà vua trông coi triều chính niên hiệu Long Thụy Thái bình, đổi quốc hiệu là Đại Việt

Năm 1054 Thái tử Nhật Tông lên ngôi tức là vua Thánh Tông, đổi quốc hiệu là Đại Việt

Đại Việt Sử ký ghi: “Thánh Tông là ông vua nhân từ, có lòng thương dân, một năm trời làm rét lắm, Thánh Tông bảo những qua hầu gần rằng: “Trẫm ở trong cung ăn mặt như thế nầy còn rét, nghĩ những phạm nhân giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc. Vả lại có người xéT hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm. Nói rồi liền lấy chăn chiếu cho tù nằm và mỗi ngày cho hai bữa ăn. Lại có một hôm Thánh Tông ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án có Động Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng:”Lòng trẫm yêu dân như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại làm càng phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi.

Thánh Tông có lòng nhân như thế cho nên trăm họ mến phục, trong đời ngài làm vua ít có giặc giả. Ngài lại có ý muốn khai hóa con đương văn học, lập văn miếu, làm tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 tiền hiền để thờ. Nước ta có văn miếu thờ Khổng Tử và chư hiền khởi đầu từ đấy.

Lý Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ. Năm ấy là năm Kỷ Dặu 1069, năm ấy vua Thánh Tông về triều đổi niên hiệu là Thần Võ. Chế Cũ xin dâng đất 3 châu để chuộc tội, là Châu Đại Lý, châu Ma Linh và châu Bố Chính. Thánh Tông nhận lấy 3 châu và thả cho vua Chế Củ về nước. Những châu ấy hiện nay thuộc tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị...”

Lý Thánh Tông là ông Vua biết thương dân. Những lời nói hành động của nhà Vua là những hành động phóng sanh vô cùng cao quý và được trọng vọng, còn lưu lại đến hơn nghìn năm nay để cho hậu thế soi chung. Lý Thánh Tông làm vua được 18 năm. Đến năm 1072 thì mất, trị vi được 17 năm, thọ 50 tuổi (Việt Nam sử lược - triều đại nhà Lý trang 102-103 - Trần Trọng Kim)

Phóng thích phạm nhân

Cũng tại đất nước Việt Nam nầy thời hiện đại xã hội chủ nghĩa, cũng không khác thời xa xưa của ông cha ta, cũng có những người làm tội, những người lầm lỗi, những người lạc lối, không làm chủ được chính mình nên có lúc tội ác tày trời, chồng chất cao như núi tu di. Những người làm tội hiện nay còn phải chịu khâu ra tòa kết án nặng hay nhẹ, tùy tội cầu.

Việc phóng thích các phạm nhân thường phạm hằng năm do cải tạo tốt nên được giảm án, ngày càng còn lại ít ngày. Có người được mãn hạn tù, có người do án oan sai...nhiều thành phần, nhưng hằng năm, Nhà Nước có xét giảm án trạng, xuống còn ít năm. Những phạm nhân cải tạo tốt được ân xá, phạm nhân hết hạn tù dày vào những ngày 15 tháng bảy âm lịch, hay ngày mùng 2 tháng 9 cũng được Chủ Tịch nước giảm án tội trạng, được cho ra về sum hợp với gia đình.

Đây cũng chính là hành động phóng sanh đối với những phạm nhân mang nhiều ngày tù rạt, ngày 15 tháng 7 âm lịch là ngày đại lễ Vu Lan xá tội tội nhân dưới âm cung, ngày mùng 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh của nước ta, là những ngày vinh dự cho phạm nhân được trả về với gia đình

Đừng nên gây tội hại ta

Ăn ở lương thiện mới là công dân

Không nên sai phạm lỗi lầm

Mọi người xa lánh khổ tâm với đời

III. Hùn phước phóng sanh

Hùn phước là chung đậu các số tiền nhỏ trở thành số tiền lớn để làm một lễ chẩn tế, phóng sanh cầu phước báo, cầu cho ông bà, cha mẹ, hoặc bản thân sống trăm tuổi thọ, cầu cho thân tâm nhẹ nhàng để tiến tu. Những cuộc xả thí, chẩn tế phóng sanh 10.000 chim, 15.000 chim, thả 20.000 con cá là những cuộc phóng sanh của các nhà giàu có. Ngày nay ở Tp.Hồ Chí Minh, Tp.Hà Nội, hoặc ở các quốc gia Phật giáo, hay các nước Âu Mỹ, quý Thầy thường vận động, thuyết giảng, hướng dẫn Phật tử tổ chức những cuộc phóng sanh tập thể, do các vị tự phát tâm đóng góp chung lại với nhau mua thật nhiều chim, cá để làm việc phóng sanh thật rình rang, cần cầu cho có hiệu quả, có nhiều sự phát tâm phóng sanh như sau:

* Có những gia đình mua cá phóng sanh, mua chim phóng sanh. Phóng sanh như thế với nhà Phật thì được phước chứ không có lòng từ như những người tu chơn thật làm việc phóng sanh. Những cuộc phóng sanh nầy cũng xuất phát từ tấm lòng hoan hỷ mà phóng sanh, do được Thầy Tổ giáo hóa mà làm việc phóng sanh, thân bị bệnh hoạn, hoạn nạn sắp chết tới nơi nên làm việc phóng sanh. Những người phóng sanh nầy thì không tiếc tiền của, miễn làm sau có phương tiện để phóng sanh cho thỏa nguyện.

* Cũng có những người Phật tử được Thầy dạy, nên làm việc phóng sanh có mực thước, thể hiện lòng từ bi của Đức Phật như mua rùa, rắn, dế, chim phóng sanh, mua các con vật từ tay của các nông dân thích ăn thịt thú hoang dã, mua từ các cháu học sinh thích chơi giỡn với thú cầm, sau đó cố tình làm cho chúng phải chết dưới tay mình... lấy đó làm vui. Phóng sanh có bài bản, có chủ đích, có phước báu vô biên, tuệ lực từ đó phát sanh, những quả báo xấu hiện tiền đều tiêu tan. Phóng sanh như thế có phước hơn cả, nghĩa là những người làm việc phóng sanh nầy xuất phát từ tâm thanh tịnh vô tư mà làm, thú đến từ các nông dân, các cháu bé thích chơi giỡn với thú cầm, làm cho chúng vật vã đến chết mới thôi, chúng ta nên cứu những chúng sanh nầy.

Pháp môn tu phóng sanh ngày nay được phổ cập trong quảng đại quần chúng, từ thành thị đến nông thôn, trước khi tu các gia đình bắt chim bắt cá để ăn, nay không bắt chim, cá ăn nữa mà còn mua chim cá phóng sanh, xem như việc làm đại sự trong cuộc đời làm Phât tử. Ngay cả bản thân Sư, sau khi làm việc phóng sanh, cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, thanh thản, vui lòng lắm. Sư xem như mình đã làm được một việc Phật sự lớn, cứu vớt mọi loài chúng sanh, đồng thời khuyến tấn các gia đình Phật tử cũng nên làm theo Phật sự nầy để được phước báo ở hiện tiền cũng như trong tương lai được giải trừ nghiệp chướng.

Phóng sanh như thế là hiệu quả là giải được những oan oan tương báo, oan gia trái chủ, không còn có cơ sở suy nghĩ bắt buộc phải phóng sanh như thế nầy, như thế kia. Phóng sanh như thế nầy không còn có cơ sở cho kẻ vô tâm bắt chúng trở lại lần thứ hai và lại tiếp tục bán cho chúng ta. Từ đó có câu nói phóng sanh nhiều, tội nhiều, phóng sanh ít tội ít là vậy!

Theo kinh “Giải Nghiệp” thì công đức phóng sanh để hóa giải những nghiệp chướng oan gia nhiều đời, hoặc từ đời nầy sang đời khác. Phóng sanh hóa giải những nghiệp chướng không thể tiêu trừ, những trái ngang chưa từng tiêu tai, những khổ đau

không thể giải tỏa. Không phóng sanh thì không giúp cho bản thân nhẹ nhàng, không giúp cho gia đình vượt qua những oan ức từ nhiều đời.

Những việc nên và không nên

Tuy nhiên, việc phóng sanh cần có sự sáng suốt, không phải kêu gọi phóng sanh là bắt buộc người Phật tử phải nghe, đi mua chim và làm việc phóng sanh ngay. Phóng sanh là do duyên nghiệp oan trái, có cùng chung một nghiệp dĩ “ăn khớp” với nhau. Khi những người cùng chung một nhà “nhà nghiệp” gọi là nghiệp nhân, chờ ngày đủ yếu tố, cấu thành nghiệp quả, bắt đấu vay trả trả vay một cách khắc nghiệt, nghiệt ngã vô cùng. Đây là nguyên nhân mà có người khuyên giải làm viêc phóng sanh.

Phóng sanh là pháp vô duyên từ, không phải do Thầy kêu gọi ra chợ mua 15.000.000 đồng chim rồi đem phóng sanh đó là xong, là giải xong nạn tai. Phóng sanh có ích lợi cao là khi nào có duyên với loài thú đó, hay một chúng sanh yếu đuối...Như hôm nay gặp một Cụ già đang “quảy” trên vay một con rùa, nhìn hình ảnh đó, ta cảm thấy đau lòng, chắc chắn một lát nữa đây rùa sẽ bị đưa vào nồi nước sôi lội vài bước rồi chết...động lòng ấy, ta mua con rùa nầy đem phóng sanh cứu nó ra khỏi cái chết đau đớn, khổ đau vô cùng. Hành động phóng sanh nầy sẽ mang lại hiệu quả cao, mà trả được những nợ nần từ kiếp truớc. Bạn ơi, việc oan trái trả vay, trả biết bao giờ cho hết, nhưng lúc làm việc phóng sanh, Bạn sẽ có sự cảm niệm, cảm thấy nhẹ nhàng thì Bạn biết là “hết” nghiệp nhân đó. Việc phóng sanh như trên không tốn tiền vô lý, nhưng đó là hiệu quả của pháp môn tu “phóng sanh”.

Hôm nay Bạn làm một việc mua và thả, tha mạng cho các chú “dế mèn” khi gặp các cháu học sinh đang chơi “đá dế”. Bạn sẳn sàng dùng tiền mua các chú dế mèn, đem thả, đó là hành động phóng sanh cao cả, vì Bạn cứu được những sanh linh sắp bị đứt đầu, nhưng không hề hay biết. Hành động nầy làm tăng thọ cho những người có mạng yểu. Đi đường gặp các cháu thiếu niên ở quê bắt tổ chim con, Bạn xuất tiền mua các chú chim con đó, niệm Phật, niệm chú vãng sanh, đem thả, lòng Bạn thấy nhẹ nhàng thanh thản vô cùng, vì Bạn làm được một việc hy hữu, làm việc khó làm, lợi lạc cho chúng sanh chung.

Khổ thì chúng sanh nào cũng khổ, nghiệp thì chúng sanh nào cũng là nghiệp. Nghiệp khổ tức là oan gia trái chủ, xâm lấn, đè nén hành hạ lẫn nhau, đưa nhau qua những đoạn đường chông gai hiểm hóc, tức là làm việc phóng sanh, cứu những chúng sanh còn sống sót trong gang tấc, khiến cho nó sống lại. Ấy là điều khó làm nhưng ta làm, khó khăn lắm mới cứu được những loài trùng dế, chim chóc, giúp cho chúng qua cơn bỉ ngạn, hưởng thọ những sự vui, cùng đoàn tụ với gia đình, họ hàng thân quyến của chúng. Cho nên làm việc phóng sanh phải có ý thức, không nên lựa chim khỏe, chim tốt phóng sanh., chim có tật phế bỏ lại, chim ngáp ngáp do thiếu ăn, lựa bỏ cho chết.

Tại sao chúng ta làm việc phóng sanh một cách vô ý thức, đi lựa chim, lựa cá tốt để phóng sanh. Phóng sanh như thế làm cho chúng bạn bè chê cười, có tiền làm việc “vô lối”, “phi đạo đức, đạo đức ốm, đạo đức giả hiệu” làm trò cười cho thiên hạ, hổ danh người con Phật. Chúng ta nên phóng sanh cho có tình có lý, có đạo nghĩa làm gương hạnh cho đời.

Đời nhà Tống, ngài Bất Động Pháp Sư đã từng làm văn giới sát, phóng sanh, thiết thực chung cho muôn loài, trong đó có loài người. Ngài không phải phân biệt riêng gì cho loài cầm thú mạnh yếu, đẹp xấu. Nhưng nếu con người nương theo gương lành của ngài Bất Động Pháp sư phát tâm mà làm được việc phóng sanh giúp cho loài cầm thù thoát khỏi cái chết oan uổng, thật đáng khen thay.

Phóng sanh là việc phước lành

Giúp cho muôn thú thoát sanh kiếp nầy

Việc sanh tử mãi dần xây

Nên giúp cho thật, muôn loài nhớ ơn

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Mua Vật Phóng Sanh Trước Chùa Là Đúng Không? Nếu Dùng Tiền Làm Từ Thiện Thay Vì Phóng Sanh Có Được Không?”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com