Thiền và Tịnh lý vốn không hai. Nếu luận về sự tu thì tướng trạng của hai pháp này khác xa nhau. Thiền nếu chẳng triệt ngộ, triệt chứng sẽ chẳng thể siêu xuất sinh tử. Vì thế, tổ Quy Sơn nói: “Do chánh nhân đốn ngộ sẽ dần dần thoát trần. Nếu đời đời bất thoái sẽ quyết định có lúc thành Phật”. Ngài còn nói: “Sơ tâm do duyên đốn ngộ tự tánh, nhưng vẫn chưa thể diệt sạch ngay tức khắc tập khí trong bao kiếp từ vô thủy. Vì thế phải dạy họ trừ sạch nghiệp thức hiện đang lưu chuyển”.

Ngài Hoằng Biện nói: “Đốn ngộ tự tánh thì sở ngộ giống hệt chư Phật, nhưng chưa thể trừ sạch ngay được vô thủy tập khí, nên phải tốn công đối trị mới hòng thuận tánh khởi dụng. Như người ăn cơm, chẳng thể ăn một miếng liền no ngay được!”. Ngài Trường Sa Sầm nói: “Thiện tri thức trong thiên hạ chưa chứng được quả Niết-bàn là vì công đức chẳng bằng chư Thánh vậy!”. Vì thế, Ngũ Tổ Giới sinh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh thân sau làm Lỗ Công. Cổ kim tông sư triệt ngộ nhưng chưa triệt chứng phần nhiều đều như vậy. Ấy là do chỉ cậy vào Tự lực, chẳng cầu Phật gia bị, hễ hoặc nghiệp còn mảy may chưa tận sẽ nhất định chẳng thể thoát khỏi sinh tử được!

Về phần Tịnh độ, hễ đầy đủ ba thứ tín, hạnh, nguyện liền có thể đới nghiệp vãng sinh. Một khi đã vãng sinh sẽ vĩnh viễn thoát khỏi sinh tử. Bậc ngộ chứng sẽ mau đạt tới bậc Bổ xứ, người chưa ngộ cũng sẽ chứng địa vị A-bệ-bạt-trí. Bởi thế, Hoa Tạng hải chúng đều nguyện vãng sinh; những bậc tri thức trong Tông, trong Giáo cùng sinh Tịnh độ. Rõ ràng là do cậy vào Phật lực kiêm thêm tâm khẩn thiết nên được cảm ứng đạo giao, do vậy chóng thành Chánh Giác.

Xét tình thế hiêïn tại, đừng quan tâm tới các Thiền lục nữa, cứ chuyên tu Tịnh nghiệp, dùng cái tâm chẳng nhiễm mảy trần để chuyên trì Thánh hiệu vạn đức hồng danh. Niệm ra tiếng hoặc niệm thầm, chẳng tạp, chẳng gián đoạn sao cho niệm khởi từ tâm, tiếng thấu vào tai, từng chữ phân minh, từng câu chẳng loạn. Lâu ngày chầy tháng, tự thành một phiến, tự chứng Niệm Phật Tam-muội, tự biết Tây Phương tông phong. Đấy là dùng công phu “phản văn tự tánh” (xoay trở lại nghe nơi tự tánh) của Quán Âm để tu Tịnh nghiệp; “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” của Thế Chí, tuy là Tịnh nhưng chính là Thiền, còn gì hay khéo hơn!

Người tu Thiền định (chỉ Tứ thiền, Bát định) và người tham Thiền chỉ cậy vào Tự lực, chẳng cầu Phật gia bị. Vì thế, lúc công phu đắc lực, chân vọng chống cự nhau, thường có các thứ cảnh giới huyễn hoặc xuất hiện, huyễn hoặc biến mất! Ví như lúc trời mưa dầm sắp tạnh, mây dầy bị xé toạc, chợt thấy ánh mặt trời chỉ trong khoảng khắc, biến hóa bất trắc. Nếu chẳng phải là người thật sự có đạo nhãn sẽ chẳng thể phân biệt biết rõ tất cả những cảnh giới ấy. Nếu tưởng lầm đó chính là dấu hiệu chứng tỏ mình chứng đắc sẽ bị ma dựa phát cuồng, không sao chữa được!

Người niệm Phật dùng lòng tín, nguyện chân thành thiết tha, trì vạn đức hồng danh ví như mặt trời rực rỡ giữa hư không, đi trên đường lớn của vua, chẳng những quỷ mị vọng lượng biến mất tăm tích, ngay cả những ý niệm ngoắt ngoéo, sai trái cũng chẳng sinh từ đâu được. Suy đến cùng cực, chẳng qua là niệm đến mức công thuần, lực tận thì toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm Phật bất nhị, tâm Phật như một mà thôi! Chỉ sợ con người chẳng biết đến hạnh ấy, lý ấy, nên chẳng thể xứng hợp ý nguyện phổ độ chúng sinh của Phật; chứ phải đâu là bí mật chẳng truyền, chỉ truyền riêng cho mình ông ư? Nếu có những “diệu quyết” khẩu truyền kín đáo thì đấy chính là tà ma ngoại đạo, chứ nào phải là Phật pháp!

Hòa thượng Pháp Tràng sẵn đủ linh căn từ trước, thoạt đầu là bậc chân Nho, sau thành bậc chân Tăng, có thể nói là chẳng uổng công đọc sách học đạo vậy! Đời có bậc chân Nho thì mới có bậc chân Tăng. Những hạng vô lại xuất gia thảy đều là ma vương ngoại đạo phá hoại Phật pháp vậy! Ngữ lục của Ngài (Pháp Tràng) thật là thống khoái, thẳng chóng, mở toang tự tâm con người, rất nên khắc in lưu thông để làm pháp bảo nhà Thiền. Thế nhưng, Ngài chỉ phát huy đạo lý “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Chúng ta chuyên tu Tịnh nghiệp, đừng nên so đo, đoán mò lời Ngài đến nỗi đánh mất lợi ích cả hai bên vậy. Chẳng thể chẳng biết điều này.

Tông gia (Thiền tông) chỉ đề xướng bổn phận, những thứ khác đều chẳng thèm xiển dương. Việc tu nhân đạt quả, đoạn hoặc chứng chân của nhà Thiền đều là ngầm tự tu trì. Những kẻ đứng ngoài thấy nhà Thiền chẳng đề xướng những đạo lý tu chứng ấy, bèn cho rằng Tông gia hoàn toàn chẳng dùng đến những pháp đó. Đấy là báng Tông lẫn báng Phật, báng Pháp vậy!

Nên biết rằng trong hết thảy pháp môn đức Phật đã nói, đều phải đoạn hoặc chứng chân thì mới có thể liễu sinh thoát tử, tuyệt đối chẳng có chuyện chưa đoạn sạch hoặc mà liễu thoát được! Với pháp môn niệm Phật, nếu người vãng sinh đã đoạn hoặc nghiệp thì sẽ mau chứng Pháp thân, người tuy còn đủ hoặc nghiệp mà vãng sinh thì cũng đã vượt lên địa vị Thánh nhân. Một đằng hoàn toàn cậy vào Tự lực, một đằng hoàn toàn nhờ vào Phật lực kiêm thêm Tự lực.

Điều thứ hai, sự tu trì khó dễ thật là một trời một vực. Thường có kẻ thông minh, đọc sách Thiền qua quít, hiểu chút vị Thiền, bèn toan lấy Thiền làm mạng, học đòi làm bậc cao nhân thông suốt, nhưng toàn là hạng chẳng biết Thiền lẫn Tịnh đến nơi đến chốn, cứ lầm tưởng mình là hạng tôn quý, đại căn. Tuyệt đối chớ nên bắt chước theo thứ tri kiến như thế. Bắt chước theo đó, chỉ e trải kiếp số như vi trần vẫn chẳng mong gì được liễu sinh thoát tử cả!

“Quyền” nghĩa là Như Lai tùy thuận theo căn cơ của chúng sinh mà đặt bày phương tiện. “Thật” nghĩa là nói đến những nghĩa lý do chính tự tâm đức Phật chứng được. “Đốn” là chẳng cần đến thứ tự, nhanh thẳng, mau lẹ, nhất siêu trực nhập. “Tiệm” nghĩa là tấn tu dần dần theo thứ tự, chứng nhập dần dần, phải trải nhiều kiếp, nhiều đời mới đích thân chứng được Thật tướng.

Người tham Thiền cho rằng pháp tham Thiền là pháp “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Cố nhiên, pháp này thật sự là pháp đốn, nhưng họ chẳng biết tham Thiền dù đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì cũng mới chỉ thấy được đức Phật lý tánh sẵn có ở ngay trong tâm này! Nếu là căn tánh đại Bồ-tát thì vừa ngộ liền chứng, tự có thể mãi mãi thoát khỏi luân hồi, vượt xa Tam giới. Từ đấy, dùng thượng cầu hạ hóa làm nền tảng để trang nghiêm phước và trí.

Xét ra, trong năm ngàn người đại triệt đại ngộ, chỉ được một hai vị thuộc vào căn tánh này. Còn như những kẻ căn khí hơi kém hơn, dù có thể diệu ngộ nhưng chưa thể đoạn trừ Kiến Tư hoặc thì vẫn phải thuộc trong Tam giới, thọ sinh thọ tử. Đã phải thọ sinh tử thì từ ngộ thành mê là nhiều, từ ngộ trở thành ngộ lại ít. Như vậy, tuy pháp này thật sự là viên đốn, nhưng nếu chẳng phải đúng người thì cũng chẳng thật sự được lợi ích thật nhanh chóng, nên nó cũng trở thành pháp Quyền Tiệm mà thôi. Vì sao vậy? Do cậy vào Tự lực. Nếu Tự lực mười phần đầy đủ thì họa may sẽ được như thế, còn như chỉ hơi thiếu chút phần sẽ chỉ ngộ được lý tánh nơi cửa miệng, chẳng thể đích thân chứng được lý tánh. Hiện thời, bậc đại triệt đại ngộ còn khó có được mấy người, huống là người chứng được điều mình đã ngộ!

Một pháp niệm Phật thông trên suốt dưới, vừa là Quyền vừa là Thật, vừa Tiệm vừa Đốn, chẳng thể dùng giáo lý tầm thường phán định được. Trên đến bậc Đẳng giác Bồ-tát, dưới đến chủng tánh A-tỳ đều cùng nên tu tập (do đấy nói là “thông trên suốt dưới”). Như Lai vì chúng sinh thuyết pháp chỉ nhằm làm cho chúng sinh liễu sinh thoát tử. Trong các pháp môn khác, bậc Thượng căn có thể liễu sinh thoát tử ngay trong đời này, còn Hạ căn bao kiếp khó lòng liễu được! Chỉ mỗi mình pháp này, chẳng cần biết là chủng tánh, căn cơ nào, cũng đều có thể vãng sinh Tây Phương ngay trong đời này, hễ vãng sinh liền liễu sinh thoát tử. Pháp thẳng chóng như thế há có thể gọi là Tiệm ư?

Chỉ do căn cơ (được hóa độ bởi pháp này) chẳng giống với căn cơ của các pháp viên đốn thông thường nên pháp này tựa hồ là Tiệm, nhưng oai lực của pháp môn này phát xuất từ thệ nguyện muốn cho những căn cơ hạ liệt ấy đều mau chóng hưởng được lợi ích lớn của đức Như Lai. Lợi ích ấy nằm ở chỗ cậy vào Phật từ lực. Phàm những người giảng Thiền nếu chưa nghiên cứu kỹ Tịnh tông, chưa có ai không coi pháp này là thiển cận rồi khinh thường. Nếu nghiên cứu kỹ Tịnh tông ắt sẽ cạn kiệt lòng thành, tận hết sức lực hoằng dương, há nào chấp mãi vào những lý luận Quyền Thật, Tiệm Đốn để tự mình lầm, làm người khác lầm nữa?

Nói đến thủ xả (lấy bỏ) là ước trên thật nghĩa rốt ráo mà nạn (“nạn” tức là cật vấn, bắt bẻ), chẳng biết rằng không thủ không xả rốt ráo chỉ là chuyện sau khi đã thành Phật! Nếu chưa thành Phật, còn đang trong giai đoạn “đoạn hoặc chứng chân” thì đều thuộc về thủ xả cả! Đã chấp nhận chuyện thủ xả, “đoạn hoặc chứng chân”, sao lại chẳng chấp nhận chuyện thủ xả “bỏ Đông lấy Tây, lìa cấu giữ tịnh?”.

Đối với pháp tham Thiền thì thủ xả đều là sai, nhưng đối với một pháp niệm Phật, thủ xả lại là đúng. Một đằng chuyên suy xét tự tâm, một đằng kiêm nhờ vào Phật lực. Kẻ kia chẳng xét đến duyên do của từng cửa pháp môn, lầm đem pháp tham Thiền phá pháp niệm Phật; vậy là hiểu lầm ý mất rồi!

Vô thủ xả vốn là đề hồ, nhưng niệm Phật mà cũng muốn không thủ xả thì không thủ xả bèn thành thuốc độc! Mùa Hạ dùng Cát Căn[33], mùa Đông khoác áo Cừu, khát uống đói ăn, chẳng sai trái gì, cũng chẳng thể cố chấp được! Chỉ cốt sao chọn lấy điều thích nghi thì được lợi ích chẳng bị trở ngại gì!

Coi “bỏ Đông lấy Tây” là sinh diệt tức là chẳng biết rằng “chấp Đông phế Tây” chính là đoạn diệt! Chưa chứng Diệu Giác, có ai là không lấy bỏ? Tam kỳ[34] luyện hạnh, trăm kiếp tu nhân, thượng cầu hạ hóa, đoạn hoặc chứng chân, không sự nào chẳng phải là lấy bỏ đó sao? Phải biết rằng đức Như Lai muốn cho hết thảy chúng sinh mau chứng Pháp thân và Tịch Quang cho nên Ngài mới đặc biệt khuyên trì danh hiệu Phật, cầu sinh Tây Phương.

Một chuyện tham Thiền nói dễ dàng sao! Cổ nhân như ngài Triệu Châu Thẩm thiền sư, xuất gia từ nhỏ, đến hơn tám mươi tuổi vẫn hành cước, nên mới có bài tụng rằng:

“Triệu Châu bát thập do hành cước,
Chỉ vị tâm đầu vị tiễu nhiên.
Triệu Châu tám chục còn hành cước,
Do bởi cõi lòng chưa lặng không!”.

Ngài Trường Khánh ngồi rách bảy cái bồ đoàn rồi mới khai ngộ. Ngài Dũng Tuyền phải nhọc nhằn hết bốn mươi năm. Ngài Tuyết Phong ba lượt lên gặp ngài Đầu Tử, chín lần lên Động Sơn. Họ là bậc đại Tổ sư đại triệt, đại ngộ mà còn phải gian nan đến thế. Lũ ma con kia mới nghe qua ma thuyết đều được khai ngộ ngay, vậy thì những vị Tổ sư vừa nói trên đây có xách giày cho chúng cũng không đáng sao?

Những lời “chẳng chấp trước”... về lý thì đúng, nhưng về sự thì chẳng phải là điều hạng phàm phu sát đất có thể làm nổi! Suốt ngày mặc áo ăn cơm, rồi vênh váo mình bất chấp đói lạnh, bảo kẻ suốt ngày bụng rỗng tuếch, chẳng được chén nước, hạt cơm, đói lả gần chết rằng: “Tôi coi gan rồng tủy phượng hệt như uế vật, nghĩ đến là muốn ói, huống hồ là nuốt xuống!”. Toàn là nói suông như nhau thôi!

Nay kẻ tham Thiền nếu chẳng hiểu giáo lý thì cái không giải thoát đó phần nhiều trở thành bệnh cho họ. Còn như không cảnh hiện tiền khi tịnh tọa, lắng ý, thì bất quá là do ý niệm lặng trong, chế ngự được vọng nên ngẫu nhiên huyễn cảnh phát hiện đó thôi! Nếu tưởng lầm đấy chính là dấu hiệu chứng tỏ mình chứng đắc, bèn sinh lòng mừng rỡ lớn lao thì sẽ mất trí thành cuồng, Phật cũng khó cứu được!

Nếu may mắn suy xét kỹ, chẳng chấp trước, buông bỏ huyễn vọng, chợt quán thông các pháp môn thì đấy mới là đi trong chốn gai góc đã lâu, chợt đến chỗ khoảng khoát. Người đời mạt căn cơ hèn kém, tri thức hiếm hoi, nếu chẳng nhờ vào Phật từ lực chuyên tu Tịnh nghiệp, chỉ cậy vào Tự lực tham cứu Thiền tông để minh tâm kiến tánh, đoạn hoặc chứng chân thành công hiếm có mấy ai; còn hạng tưởng huyễn là chân, lấy mê làm ngộ, ma dựa phát cuồng thâït nhiều lắm! Vì thế, các vị Vĩnh Minh, Liên Trì v.v… quán sát căn cơ đương thời cực lực chủ trương pháp môn Tịnh độ.

Thiền tức là Chân như Phật tánh trong bổn tâm chúng ta, Tông môn gọi là “bản lai diện mục trước lúc cha mẹ sinh ra”. Tông môn chẳng nói toạc ra, cốt sao người tham cứu tự hiểu lấy, nên mới nói như vậy. Chứ thật ra, nó là cái tâm thể thuần chân, không Năng, không Sở, vừa Tịch vừa Chiếu, ly niệm linh tri (“ly niệm linh tri” là không có ý niệm suy nghĩ gì, nhưng mọi cảnh hiện hữu đều hiểu rõ cả).

Tịnh độ là tín, nguyện trì danh cầu sinh Tây Phương, chứ chẳng phải chỉ riêng “duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà!”. “Có Thiền” là cực lực tham cứu đến mức niệm lặng, tình mất, thấy thấu tột “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra”, minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh độ” là chân thật phát Bồ-đề tâm, sinh tín, phát nguyện, trì danh hiệu Phật cầu sinh Tây Phương. Nói Thiền và Tịnh độ chỉ là ước về Giáo, ước theo Lý (mà nói).

“Có Thiền, có Tịnh độ” là ước về căn cơ, ước theo mặt tu hành. Giáo lý luôn luôn như thế, Phật chẳng thể tăng, phàm chẳng thể giảm. Ước theo căn cơ để tu hành thì phải y giáo khởi tu, tu hành đến cùng cực để chứng lý, chứ thật sự chẳng có gì khác cả!

Thứ hai là văn tuy tương tự, nhưng thật ra khác biệt rất lớn. Hãy nên hiểu kỹ càng, đừng vội vã. Nếu tham Thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt để đều chẳng thể gọi là “có Thiền”. Nếu niệm Phật nhưng thiên chấp duy tâm, lại không tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chân thật, thiết tha, mà chỉ hời hợt, hờ hững, thực hành qua quít, hoặc hạnh tuy tinh tấn nhưng tâm luyến cảnh ma, hoặc cầu đời sau sinh vào nhà phú quý hưởng thú vui ngũ dục, hoặc cầu sinh lên trời hưởng phước lạc trời, hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng nghe một hiểu được cả ngàn, đắc đại Tổng trì, hoằng dương đạo pháp phổ lợi chúng sinh… đều chẳng được gọi là “có Tịnh độ!”.

“Có Thiền, có Tịnh độ, khác nào cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm Phật Tổ” là người triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm nhập kinh tạng, biết hết các pháp môn Quyền, Thật của Như Lai, nhưng trong các pháp môn lại chỉ chọn lấy một pháp tín nguyện niệm Phật để tự lợi. Lợi người làm chánh hạnh tu tập. Bậc Thượng phẩm Thượng sinh đọc tụng kinh Đại thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa đã nói trong Quán Kinh chính là hạn người này.

Người ấy có đại trí huệ, có đại biện tài, ma tà ngoại đạo nghe tên vỡ mật, như hổ đội sừng oai mãnh khôn sánh! Có ai đến cầu học bèn tùy cơ thuyết pháp: nên dùng Thiền Tịnh song tu để tiếp độ bèn dùng Thiền Tịnh song tu để tiếp độ; nên dùng chuyên tu Tịnh độ để tiếp độ bèn dùng chuyên tu Tịnh độ để tiếp độ. Bất luận là Thượng, Trung, Hạ căn, không ai chẳng được lợi ích, há chẳng phải là đạo sư của trời người ư?
Đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, vãng sinh Thượng phẩm, trong khoảng khảy ngón tay chứng Vô sinh nhẫn, ít nhất cũng chứng được Sơ trụ. Cũng có người đốn siêu các địa vị, đạt đến Đẳng giác. 

Bậc Sơ trụ trong Viên giáo còn có thể hiện thân làm Phật trong trăm cõi, huống là những địa vị sau đó, càng cao càng thù thắng, cho đến địa vị thứ bốn mươi mốt là Đẳng giác! Vì thế nói là: “Đời sau làm Phật, Tổ!”.

“Không Thiền có Tịnh độ, vạn người tu vạn về, nếu được thấy Di-đà, lo gì chẳng khai ngộ” là có người tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng quyết chí cầu sinh Tây Phương. Do trong kiếp xưa, Phật từng phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nếu chúng sinh thật sự có thể như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật sẽ cảm ứng đạo giao, liền được nhiếp thọ. Người tận lực tu định huệ cố nhiên được vãng sinh, nhưng kẻ Ngũ nghịch Thập ác, lâm chung bị sự khổ bức bách, phát lòng hổ thẹn lớn lao, xưng niệm danh hiệu Phật hoặc tới mười tiếng, hoặc chỉ một tiếng rồi liền lâm chung, cũng đều được Phật hóa thân tiếp dẫn vãng sinh. Chẳng phải là “vạn người tu, vạn người về” hay sao?

Kẻ ấy tuy niệm Phật chẳng bao nhiêu, nhưng do cực kỳ mãnh liệt nên đạt được lợi ích lớn lao như thế, chớ nên so sánh nhiều ít với những kẻ niệm Phật hời hợt, qua loa! Đã sinh về Tây Phương, thấy Phật nghe pháp, dù có nhanh chậm bất đồng, nhưng đều đã cao dự dòng Thánh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, tùy theo căn tánh cạn hay sâu, là Tiệm hay Đốn mà chứng các quả vị. Đã được chứng quả, cần chi phải nói đến khai ngộ nữa! Vì thế nói: “Nếu được thấy Di-đà, lo gì chẳng khai ngộ!”.

“Có Thiền không Tịnh độ, mười người chín chần chừ, ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Người tuy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến Tư phiền hoặc chẳng dễ đoạn trừ, phải qua nhiều duyên rèn luyện để trừ sạch không còn sót gì mới có thể thoát khỏi Phần đoạn sinh tử. Với kẻ chẳng đoạn được chút gì thì chẳng cần bàn đến nữa! Dù cho đoạn đến mức còn một mảy phiền não chưa trừ sạch thì vẫn hệt như cũ: khó tránh nổi luân hồi Lục đạo! Biển sinh tử sâu thăm thẳm, nẻo Bồ-đề xa vời vợi, còn chưa về được nhà đã mạng chung. Trong mười người đại triệt đại ngộ, chín người đã như thế; cho nên nói “mười người chín chần chừ” (thập nhân cửu ta lộ).

Ta là “ta đà”, thông thường nói là “đảm các” (chần chừ). “Ấm cảnh” là “Trung ấm thân cảnh”, tức là các cảnh hiện ra bởi các nghiệp lực thiện ác trong đời này là bao kiếp. Khi cảnh này hiện, trong khoảng chớp mắt sẽ theo nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh mẽ nhất đi thọ sinh trong đường thiện hay ác, chẳng mảy may tự chủ được; như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ lôi đi. Tâm tình lắm mối, đặt nặng nơi nào sẽ nghiêng về đó. Ngũ Tổ Giới tái sinh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sinh làm Lỗ Công, họ còn là căn cơ bậc thượng đấy nhé! Vì thế nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó!”.

Chữ “ấm” có nghĩa là ngăn che, ý nói do nghiệp lực này ngăn che khiến chân tánh chẳng thể hiển hiện được. Có kẻ cho rằng “ta đà” nghĩa là lầm lạc, “ấm cảnh” là cảnh hiển hiện bởi Ngũ ấm ma, toàn là do chẳng hiểu chữ Thiền và chữ có nên mới nói hồ đồ như thế. Lẽ nào bậc đại triệt đại ngộ mười người hết chín kẻ lạc lối, chạy theo cảnh Ngũ ấm ma bị ma dựa phát cuồng ư? Phàm những kẻ bị ma dựa phát cuồng toàn là hạng tăng thượng mạn chẳng biết giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện quáng đó thôi, sao lại gán cho bậc đại triệt đại ngộ là chẳng biết tốt xấu vậy? Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện định rõ!
“Không Thiền không Tịnh độ, giường sắt và cột đồng, vạn kiếp cùng ngàn đời, không một ai nương dựa”. Có kẻ cho rằng câu: “Không Thiền không Tịnh độ” chỉ kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp, thật lầm lẫn quá!

Pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh độ phù hợp với các căn cơ nhất. Kẻ nào chưa triệt ngộ, lại chẳng cầu vãng sinh, hời hợt, qua quít tu các thiện pháp khác. Đã chẳng thể cân bằng định huệ, đoạn hoặc chứng chân, lại chẳng cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sinh; do đã tạo ác nghiệp, khó trốn khỏi ác báo. Một khi hơi thở ra chẳng trở vào, liền đọa địa ngục, rõ ràng là trải kiếp dài lâu nằm ngồi, ôm ấp giường sắt, trụ đồng để đền trả các thứ ác nghiệp: tham lam thanh sắc, sát sinh hại mạng v.v… Chư Phật, Bồ-tát tuy rủ lòng thương xót, nhưng họ bị ác nghiệp chướng ngăn che nên chẳng thể được lợi ích.

Người xưa nói: “Người tu hành nếu không chánh tín, cầu vãng sinh Tây Phương, tu lung tung các điều thiện khác thì gọi là oan gia đời thứ ba” chính là nói đến tình cảnh này. Bởi lẽ, do đời này tu hành, đời sau hưởng phước. Cậy phước làm ác ắt lại bị đọa lạc. Tạm vui trong đời này, khổ mãi trong cả kiếp dài lâu. Ví như nghiệp địa ngục tiêu hết, lại chuyển sinh làm súc sinh, muốn lại được thân người, khó vô cùng khó!
Vì thế, đức Phật dùng tay nhón lấy chút đất, hỏi A-nan: “Đất trong tay Ta nhiều hay đất trong đại địa nhiều?”. A-nan bạch Phật: “Đất trong đại địa nhiều!”. Phật dạy: “Được thân người như đất trong tay Ta, mất thân người như đất trong đại địa”. Nói “muôn kiếp và ngàn đời, không một ai nương dựa” là do bị ràng buộc bởi vần điệu của bài kệ nên chỉ nói thiển cận như thế.

Hết thảy pháp môn chuyên câïy vào Tự lực, pháp môn Tịnh độ chuyên cậy vào Phật lực. Hết thảy các pháp môn phải hết sạch hoặc nghiệp mới có thể liễu sinh tử, pháp môn Tịnh độ đới nghiệp vãng sinh liền dự vào dòng Thánh. Đại sư Vĩnh Minh sợ thế gian chẳng biết nên soạn riêng bài Liệu Giản này để chỉ dạy cho đời sau, có thể nói là “chiếc bè báu nơi bến mê, là người dẫn lối nơi đường hiểm!”. Tiếc là mọi người trong thế gian đọc lướt qua, chẳng chịu nghiên cứu đến cùng tột, chẳng phải là đồng phận ác nghiệp xui khiến đến nỗi thành như thế chăng?

Đạt-ma từ Tây qua, truyền Phật tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Nhưng cái để thấy, để thành ấy chính là thiên chân Phật tánh có sẵn ngay nơi tâm chúng ta. Ngài dạy như thế để con người trước hết biết được cái gốc rồi tự dựa vào đó mà tấn tu hết thảy các pháp tu chứng cho đến khi nào tu được cái không thể tu, chứng được cái không thể chứng mới thôi! Chứ chẳng có nghĩa là vừa ngộ liền đầy đủ cả phước lẫn huệ, viên mãn rốt ráo Phật đạo Bồ-đề, giống như vẽ rồng điểm nhãn để người nghe tự mình được thọ dụng!

Do vậy, Thiền tông phát triển rực rỡ, chói ngời nơi Chấn Đán (Trung Hoa), đạo “tâm này chính là Phật”, pháp “phi tâm phi Phật” lan khắp hoàn vũ. Người thiên cơ sâu đối với mỗi cơ, mỗi cảnh liền biết đầu mối, liền phun châu nhả ngọc, chẳng vướng lối sáo mòn, vào sống ra chết trọn chẳng ngăn ngại, sợ hãi, được đại giải thoát, đắc đại tự tại. Nếu căn cơ hơi kém hơn, dù đại triệt đại ngộ, nhưng phiền não tập khí chưa thể trừ sạch thì vẫn là người trong sinh tử y như cũ. Xuất thai cách ấm[35] đa phần bị mê. Bậc đại ngộ còn như thế, huống kẻ chưa ngộ ư? Vì thế, phải chuyên tâm dốc chí vào pháp môn Tịnh độ, cậy vào Phật từ lực mới là kế sách ngàn phần ổn thỏa, vạn phần thích đáng vậy!

Trong Luật, Giáo, Thiền tông, trước hết phải hiểu sâu giáo lý rồi mới y giáo tu hành. Tu hành công sâu, đoạn hoặc chứng chân mới thoát khỏi sinh tử. Nếu chẳng hiểu giáo lý, bèn là tu mù luyện quáng. Nếu không, được chút ít đã cho là đủ bèn bị ma dựa phát cuồng. Dù cho hiểu giáo lý, công tu hành sâu xa, vẫn phải đoạn hoặc, nếu còn chút mảy may nào chưa đoạn sạch sẽ vẫn y như cũ, chẳng thể thoát khỏi cảnh khổ được! Mãi đến khi hoặc nghiệp hết sạch mới có thể thoát ly sinh tử, nhưng vẫn còn cách địa vị Phật rất xa, phải trải bao kiếp tấn tu mới viên mãn được Phật quả.

Ví như dân hèn sinh ra đã thông minh, đọc sách, học văn nhiều năm khó nhọc, học vấn đã thành, thi đậu làm quan. Do có tài năng lớn, từ chức quan nhỏ được thăng cấp dần đến khi làm tể tướng, quan vị cực phẩm nhưng không thể nào lên cao hơn được nữa! Địa vị bậc nhất trong đám quần thần, nhưng so với Thái tử, sang hèn khác nhau một trời, một vực, huống hồ so với Hoàng đế? Suốt đời làm bầy tôi, tuân hành lệnh vua, cúc cung tận tụy giúp vua cai trị quốc gia. Nhưng cái địa vị tể tướng ấy thật chẳng dễ dàng gì! Cả nửa đời siêng năng vất vả, ra sức nhẫn nại, cho đến cuối cùng cũng chẳng hơn được thế. Còn kẻ học vấn, tài năng sút kém đôi chút chẳng đạt được như thế thì có đến trăm, ngàn, vạn, ức người! Đấy là Tự lực.

Học vấn tài năng ví như hiểu sâu giáo lý, y giáo tu hành. Địa vị đến bậc tể tướng ví như công tu hành sâu, đoạn hoặc chứng chân. “Chỉ có thể xưng là Thần (bầy tôi), chẳng dám xưng là vua” ví như tuy ra khỏi sinh tử, vẫn chưa thành Phật. “Những kẻ học vấn chẳng đủ, chẳng thể đạt được như thế rất nhiều” ví như rất nhiều kẻ chưa đoạn hết hoặc, chẳng thể thoát khỏi biển khổ sinh tử.

Trong pháp môn niệm Phật, dù chẳng hiểu giáo lý, chưa đoạn hoặc nghiệp, chỉ cần tín nguyện trì danh cầu sinh Tịnh độ, lúc lâm chung, quyết định được Phật đích thân tiếp dẫn vãng sinh Tây Phương. Đã sinh về Tây Phương, gặp Phật nghe pháp, ngộ Vô sinh nhẫn. Liền ngay trong một đời ấy, quyết định bổ vào địa vị Phật. Đấy là Phật lực lại kiêm Tự lực, nghĩa là: Tín nguyện trì danh là Tự lực, Tự lực ấy có thể cảm được đức Phật. Do thệ nguyện nhiếp thọ, Phật rủ lòng từ tiếp dẫn, đấy là Phật lực có thể ứng đến ta. Do cảm ứng đạo giao bèn được như thế.

Nếu như hiểu sâu giáo lý, đoạn hoặc chứng chân thì phẩm vị vãng sinh càng cao, viên thành Phật đạo càng nhanh. Bởi thế, Văn Thù, Phổ Hiền, Hoa Nghiêm hải chúng, Mã Minh, Long Thọ, Tổ sư các tông đều nguyện vãng sinh. Ví như thác sinh vào hoàng cung, vừa ra khỏi thai mẹ đã quý hiển át cả quần thần. Đấy là do thế lực của vua. Chờ đến khi khôn lớn, học vấn tài năng mỗi mỗi đều đầy đủ cả sẽ có thể tiếp nối ngôi báu, bình trị thiên hạ. Hết thảy quần thần phải nghe theo chiếu dụ. Đấy chính là vương lực, Tự lực cùng có.

Pháp môn niệm Phật cũng giống như thế: chưa đoạn hoặc nghiệp, nương Phật từ lực vãng sinh Tây Phương liền thoát sinh tử, giống như Thái tử mới sinh đã quý hiển át cả quần thần. Khi đã vãng sinh, hoặc nghiệp tự đoạn, quyết định bổ vào địa vị Phật, giống như Thái tử khôn lớn kế thừa ngôi báu, bình trị thiên hạ.

Thêm nữa, bậc đã đoạn hoặc nghiệp như Mã Minh, Long Thọ, Tổ sư các tông; bậc đã chứng địa vị Bổ xứ như Văn Thù, Phổ Hiền, Hoa Nghiêm hải chúng đều nguyện vãng sinh, giống như trước kia trấn giữ chốn biên thùy hẻo lánh, chẳng thể nối ngôi, nay sống trong Đông Cung, chẳng bao lâu sẽ lên ngôi báu.

Tâm tánh chúng ta hệt như chư Phật, chỉ vì mê trái nên luân hồi chẳng ngơi. Như Lai xót thương tùy cơ thuyết pháp khiến cho hết thảy hàm thức đều biết đường về nhà. Pháp môn tuy nhiều, trọng yếu chỉ có hai môn Thiền và Tịnh dễ liễu thoát nhất. Thiền chỉ có Tự lực, Tịnh kiêm Phật lực.

So sánh hai môn, Tịnh khế cơ nhất, như người vượt biển phải nhờ sức thuyền mới mau đến được bến, thân tâm thản nhiên. Chúng sinh đời mạt chỉ có thể hành nổi pháp này. Nếu không là trái với căn cơ, nhọc nhằn nhưng khó thành. Phát đại Bồ-đề, sinh tín nguyện chân thành, thiết tha, suốt đời kiên trì, chỉ niệm đức Phật. Niệm đến cùng cực, tình kiến mất sạch chính là niệm nhưng vô niệm, diệu nghĩa Thiền Giáo triệt để hiển hiện; đến khi lâm chung được Phật tiếp dẫn lên ngay Thượng phẩm, chứng Vô sinh nhẫn. Có một bí quyết, tha thiết bảo ban: “Dốc lòng thành, tận lòng kính” mầu nhiệm, huyền diệu làm sao!

Ấn Quang Đại Sư

Chú thích:

33. Cát Căn: củ sắn dây, thường cho là mát, có tính chất giải nhiệt, nên ta thường uống bột sắn dây trong mùa Hạ.
34. Tam kỳ: ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
35. Xuất thai cách ấm: thân này chết đi, sinh sang đời sau.



Có phản hồi đến “19. Phân Định Giới Hạn Giữa Thiền Và Tịnh”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com