Niệm Phật muốn được nhất tâm thì trước hết phải phát tâm chân thật, thật sự vì liễu thoát sinh tử, chẳng phải vì mong người đời gọi mình là người tu hành chân thật. Lúc niệm, từng câu, từng chữ phải từ tâm phát khởi, từ miệng thốt ra, lọt vào tai. Mỗi câu đều như thế, trăm ngàn vạn câu cũng đều như thế. Làm được như thế thì vọng niệm không do đâu khởi được, tâm và Phật tự có thể khế hợp nhau. Lại phải khéo dụng tâm đừng đến nỗi quá chấp trước để rồi thân tâm bất an, đến nỗi ma sự có thể phát khởi. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, hành đúng theo đây, nhất định sẽ chẳng lầm lạc.

Lúc niệm Phật chẳng thể khẩn thiết là vì chưa biết Ta-bà là khổ, Cực Lạc là vui! Nếu nghĩ rằng thân người khó được, trung quốc khó sinh, Phật pháp khó nghe, pháp môn Tịnh độ lại càng khó gặp. Nếu chẳng nhất tâm niệm Phật, một hơi thở ra chẳng trở lại, chắc chắn sẽ tùy theo nghiệp nặng nhất trong đời trước hay đời này đọa trong Tam đồ ác đạo, chịu khổ bao kiếp dài lâu trọn chẳng có kỳ ra.

Như thế là “do nghĩ khổ địa ngục, phát Bồ-đề tâm”. Bồ-đề tâm chính là tâm tự lợi, lợi tha. Tâm này vừa phát sẽ như bình được sét đánh xuống, như thuốc thêm lưu huỳnh, sức nó rất lớn lại rất nhanh chóng. Do phát tâm Bồ-đề nên tiêu được nghiệp chướng, tăng phước huệ, chẳng thể lấy những thiện căn, phước đức bình thường sánh ví nổi.

Niệm Phật nên thường tưởng như mình sắp chết, sắp đọa địa ngục thì chẳng khẩn thiết cũng sẽ tự khẩn thiết, chẳng tương ứng cũng tự tương ứng. Dùng tâm sợ khổ niệm Phật chính là diệu pháp thoát khổ bậc nhất, cũng là diệu pháp tùy duyên tiêu nghiệp bậc nhất.

Trị tập khí trong tâm thì chỉ có siêng năng, chỉ có thiết tha, nhưng vẫn chưa đạt, chưa thấy được tập khí tiêu trừ là vì cớ gì? Ấy là tâm sinh tử chưa thiết tha, chỉ đem pháp siêu phàm nhập Thánh, tiêu trừ hoặc nghiệp, thành tựu tịnh niệm này bàn suông nơi cửa miệng nên chẳng đạt hiệu quả thật sự.

Nếu như biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe, pháp môn Tịnh độ lại càng khó gặp. Nay mình may được thân đại trượng phu, lại được nghe pháp môn Tịnh độ khó tin nhất, dám đâu để quang âm hữu hạn bị tiêu hao hết sạch bởi sắc, thanh, của cải, lợi lộc, để rồi vẫn sống thừa, chết uổng như cũ, vẫn lại trầm luân Lục đạo, không ngày thoát ra?

Hãy đem ngay một chữ “Tử” dán vào trán. Hễ những cảnh chẳng nên tham luyến hiện ra liền biết đấy chính là vạc sôi, lò than của chính mình, quyết sẽ chẳng đến nỗi như con thiêu thân đâm đầu vào lửa, cam chịu đốt mình! Với những sự mình phải nên làm sẽ biết đấy là thuyền từ để thoát khổ, quyết sẽ chẳng đến nỗi gặp việc nhân bèn thoái thác, thấy việc nghĩa chẳng làm! Như thế thì trần cảnh sẽ là duyên để nhập đạo, há cần phải dứt sạch trần duyên mới kham tu đạo chăng? Bởi đã làm chủ được tâm, chẳng bị cảnh chuyển thì trần lao chính là giải thoát.

Vì thế, kinh Kim Cang mấy lượt dạy người tâm chẳng trụ tướng, phát tâm độ tận hết thảy chúng sinh, nhưng chẳng thấy ta là người độ, chúng sinh là người được độ và tướng thọ giả của Vô dư Niết-bàn để đắc thì mới là thật sự hành Bồ-tát đạo. Nếu thấy có ta là người độ, chúng sinh được độ và Vô dư Niết-bàn là pháp để độ thì tuy là độ sinh, nhưng chưa thể khế hợp đạo Nhất thừa Thật tướng, vì chẳng thấu rõ bản thể của chúng sinh là Phật, Phật tánh bình đẳng, vọng khởi phàm tình, Thánh giải đến nỗi lợi ích vô vi biến thành công đức hữu vi. Huống hồ là tham luyến, dính chặt vào thanh, sắc, của cải, lợi lộc ư?

Niệm Phật chẳng thể thuần nhất thì phải chế tâm, chẳng để nó chạy theo bên ngoài. Lâu ngày sẽ tự được thuần nhất. Nói “thành phiến” (tâm biến thành một phiến, một khối) nghĩa là thuần nhất, không tạp vậy.

Sơ tâm niệm Phật, lúc còn chưa tự chứng Tam-muội, ai lại chẳng có vọng niệm? Cốt sao tâm thường giác chiếu, chẳng chuyển theo vọng. Ví như quân hai bên đối đầu nơi chiến lũy, ắt phải giữ vững thành quách bên mình chẳng để quân giặc xâm phạm chút nào, chờ lúc giặc vừa phát tác, mình liền nghênh địch, đánh trả, ắt phải dùng quân Chánh Giác bao vây bốn mặt khiến địch không lối lên trời, không nẻo chui xuống đất. Chúng nó sợ bị tận diệt bèn khuất phục, quy hàng.

Điều tối yếu là chủ soái chẳng hôn trầm, chẳng lười nhác, luôn luôn tỉnh táo mà thôi. Nếu một phen hôn trầm, lười nhác thì chẳng những không diệt được giặc, trái lại còn bị giặc diệt. Vì thế, người niệm Phật chẳng biết nhiếp tâm thì càng niệm càng sinh vọng tưởng. Nếu nhiếp được tâm thì vọng niệm sẽ dần dần mỏng nhẹ, cho đến hết sạch. Vì thế bảo:

“Học đạo do như thủ cấm thành,

Trú phòng lục tặc, dạ tỉnh tỉnh,

Tướng quân chủ soái năng hành lệnh,

Bất động can qua định thái bình”.

Tạm dịch:

“Học đạo hệt như giữ cấm thành,

Ngày phòng sáu giặc, đêm luôn tỉnh,

Tướng quân chủ soái luôn đôn đốc,

Chẳng dấy binh đao, vững thái bình”.

Niệm Phật tâm chẳng quy nhất là do tâm sinh tử chẳng thiết tha. Nếu luôn nghĩ như đang bị nước dâng, lửa đốt, không được cứu viện, luôn tưởng sắp bị chết, sắp đọa địa ngục, tự tâm sẽ quy nhất, chẳng cần phải tìm diệu pháp nào khác. Vì thế, trong kinh thường nói: “Nghĩ khổ địa ngục, phát Bồ-đề tâm”. Đấy chính là lời khai thị tối thiết yếu của đấng Đại Giác Thế Tôn, tiếc người đời chẳng chịu chân thật suy tưởng!

Nỗi khổ địa ngục so với thảm trạng nước, lửa sâu đậm hơn vô lượng, vô biên lần. Nghĩ đến nước cuốn, lửa cháy liền run rẩy, tưởng đến địa ngục lại hờ hững thì:

- Một là vì tâm lực nhỏ chẳng thể hiểu rõ sự khổ đó.

- Hai là khi chính mắt thấy sẽ bất giác hoảng sợ, lông tóc dựng cả lên.

Niệm Phật cũng là cách để dưỡng khí, điều thần, mà cũng là pháp để tham cứu bản lai diện mục. Vì sao nói thế? Tâm chúng ta thường luôn rối loạn, nếu chí thành niệm Phật thì sẽ thấy hết thảy tạp niệm, vọng tưởng dần dần bị tiêu diệt nên tâm quy nhất. Quy nhất thì tự nhiên thần khí sung mãn, thông suốt.

Ông chẳng biết niệm Phật diệt được vọng ư? Hãy thử niệm sẽ thấy các thứ vọng niệm trong tâm đều hiện. Nếu niệm lâu ngày sẽ tự thấy không có các thứ vọng niệm đó nữa. Lúc đầu biết có vọng niệm là nhờ niệm Phật mới thấy được các vọng niệm trong tâm mình, chẳng niệm Phật sẽ chẳng thấy.

Ví như trong nhà sạch sẽ không bụi, một ánh nắng lọt qua khe cửa sẽ thấy không biết bao nhiêu là bụi. Bụi trong nhà do ánh mặt trời hiện rõ, vọng niệm trong tâm do niệm Phật hiện rõ. Nếu thường niệm Phật, tự tâm sẽ thanh tịnh. Khổng Tử hâm mộ đạo của Nghiêu, Thuấn, Châu Công, niệm niệm chẳng quên, nên thấy Nghiêu trong canh, thấy Thuấn nơi tường, thấy Châu Công trong mộng. Đấy là do luôn luôn nghĩ nhớ.

Niệm Phật có khác chi? Do vì hoặc nghiệp, tâm và miệng của chúng sinh biến thành nhiễm ô, nên Phật dạy dùng tâm và miệng xưng niệm hồng danh Thánh hiệu A-di-đà Phật, như thường nhiễm hương, thân có mùi thơm. Niệm lâu ngày, nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận phước cao, Phật tánh sẵn có nơi tự tâm sẽ tự hiển hiện.

Nếu như vọng niệm đầy dạ, qua lại loang loáng, quẩn quanh nơi ý, đó là do chưa thật sự đề khởi chánh niệm. Nếu chánh niệm chân thật, thiết tha thì sẽ khăng khăng chuyên chú vào một cảnh chánh niệm. Như thường nói: “Chế ngự, thuần phục đúng pháp thì giặc cướp cũng như con đỏ. Chế ngự, thuần phục thất cách thì kẻ tay chân cũng thành oan gia”.

Còn thuộc địa vị phàm phu, ai là không phiền não? Phải luôn luôn đề phòng sẵn thì tự nhiên khi gặp cảnh đụng duyên, chẳng đến nỗi phiền não bạo phát. Ví như phiền não có phát, vẫn có thể nhanh chóng đề khởi giác chiếu khiến phiền não tiêu diệt. Những cảnh làm phiền não khởi nào phải chỉ có một, chỉ nêu những cảnh dễ khởi phiền não nhất thì chẳng ngoài tài, sắc và những chuyện ngang trái mà thôi.

Nếu biết tiền tài vô nghĩa, hại hơn rắn độc thì thấy tiền tài sẽ chẳng khởi phiền não, chỉ phương tiện cùng người sử dụng tiền tài, chứ rốt ráo luôn quay về tiến trình giải thoát của chính mình, sẽ không có phiền não “hoạn nạn cùng quẫn, cấp bách cầu cứu, tham tiếc tiền tài chẳng bỏ được!”.

Về sắc thì đối trước nhung mạo như hoa, như ngọc, tâm luôn nghĩ như chị, như em. Dù gặp gái ăn sương vẫn nghĩ như thế, sinh lòng thương xót, sinh tâm độ thoát, sẽ không có phiền não “thấy sắc động lòng”. Vợ chồng kính trọng nhau như khách, coi thê thiếp như ân nhân giúp mình nối dõi tổ tông, chẳng dám xem nhẹ họ như vật để hành lạc thỏa dục thì sẽ không có phiền não “đắm dục diệt thân, vợ chẳng thể sinh nở, con chẳng thành người”.

Giáo huấn con cái từ nhỏ sẽ không có phiền não “con cái ngỗ nghịch với cha mẹ, bại hoại môn phong”. Ngay khi gặp cảnh trái ngang, phải sinh lòng thương xót, thương kẻ vô tri, chẳng nên so đo. Lại nghĩ do mình đời trước từng não hại kẻ đó; do vậy phải đền nợ cũ, sinh lòng hoan hỷ, sẽ không có phiền não “trả thù kẻ trái nghịch”.

Những điều vừa nói trên chỉ dành cho người sơ cơ. Còn nếu là bậc Đại sĩ tu lâu do đã thấu rõ ngã không nên vô tận phiền não đều hóa thành đại quang minh tạng, giống như đao đã mài bén, vàng đã luyện thuần. Sen nhờ bùn vun bón mới được thanh tịnh, tươi sạch.

Cái học của người quân tử là vì mình, niệm niệm nhắc nhở mình tự tỉnh. Giác và mộng hệt như nhau, chỉ có công phu đến nơi mới hiểu được. Chỉ là hễ giác liền tu trì ngay, lâu ngày, ngay trong mộng cũng chẳng làm gì lầm lỡ!

Người học đạo nặng đạo niệm một phần, sẽ nhẹ phàm tình một phần, đó là lẽ tất nhiên! Người chưa đoạn hoặc phải thường nỗ lực. Nếu một phen phóng túng, bệnh cũ nhất định sẽ tái phát. Người đã đoạn sạch Kiến, Tư hoặc mới nên tùy ý hành động, chẳng cần phải kiềm chế, gìn giữ!

Tâm tham, sân, si ai nấy đều có. Nếu biết đó là bệnh, thế lực của chúng sẽ khó lừng lẫy được. Ví như giặc vào nhà người, nếu chủ nhân nhà ấy tưởng là người trong nhà thì đồ trân báu của cả nhà sẽ bị nó lén trộm mất sạch. Nếu biết nó là giặc, sẽ chẳng cho nó ở lại nhà mình dù chỉ một khắc, ắt phải đuổi nó đi thật xa khuất mắt, tài bảo mới chẳng bị mất, chủ nhân yên vui.

Cổ đức bảo: “Bất phạ niệm khởi, đản phạ giác trì” (chẳng sợ niệm khởi, chỉ e biết chậm). Tham, sân, si vừa khởi lập tức biết ngay, nó sẽ lập tức tiêu diệt. Nếu coi tham, sân, si là ông chủ chánh trong nhà mình sẽ giống như nhận giặc làm con, của báu trong nhà ắt phải tiêu tán hết!

Bị cảnh chuyển là sức “tháo trì” còn nông cạn. Vui giận dấy động bên trong hiện thành vẻ tốt xấu ngoài mặt. “Tháo trì” có nghĩa là hàm dưỡng. Nếu coi trọng chánh niệm thì mọi thứ khác đều xem nhẹ. Vì thế, người thật sự tu hành phải mài luyện trong trần lao, khiến cho phiền não, tập khí dần dần bị tiêu diệt thì mới là công phu thật sự.

Hãy để chuyện đối trị tập khí, phiền não trong tự tâm lại đó khoan bàn tới. Chỉ hành trì ngoài mặt, công phu bên trong trống rỗng; trái lại còn sinh ngã mạn, coi công lợi là đức thì càng bị tổn hại nhiều! Ví như ăn cơm phải có rau dưa phụ trợ, lại cũng như thân thể phải dùng áo mão để trang hoàng. Nơi con đường đạo tu hành dài lâu để liễu sinh tử, sao lại muốn thâm nhập một môn, phế sạch các môn khác? Phế sạch các môn khác, chỉ lo đả thất[15] thì còn được. Còn trong lúc thường nhật, nếu chẳng phải là bậc Bồ-tát tái lai[16], chắc chắn chưa có một ai lại không trở thành hạng biếng nhác, ngạo mạn, bởi lẽ, tâm phàm phu thường hay sinh chán.

Trời sinh ra vật, ắt phải mưa nắng điều hòa, nóng lạnh đắp đổi mới có thể khiến cho mọi vật sinh thành, tạo hóa. Giả sử mưa hoài, nắng mãi, luôn lạnh, luôn nóng thì dưới khắp gầm trời sẽ trọn chẳng có một vật gì! Huống hồ bọn ta tâm như khỉ vượn, chẳng dùng các biện pháp đối trị, lại muốn nó an trụ một nơi, chẳng vọng rong ruổi thì thật là khó lắm, khó lắm! Ai nấy nên tự gắng sức, chớ nên thiên chấp một pháp, cũng đừng lan man không đầu mối gì hết!

Cứ hướng ngoại rong ruổi tìm cầu, chẳng biết phản chiếu hồi quang, học Phật như thế, thật khó được lợi ích thật sự! Mạnh tử nói: “Đạo học không có gì khác cả, cầu sao buông được cái tâm mà thôi”. Ông học Phật chẳng biết lắng lòng niệm Phật thì đối với Nho giáo còn chưa thật tuân hành, huống hồ đối với pháp chân thật lắng tâm của Phật giáo ư?

Quán Thế Âm Bồ-tát phản văn tự tánh (xoay trở lại nghe nơi tự tánh), Đại Thế Chí Bồ-tát nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Kinh Kim Cang không trụ vào đâu mà sinh tâm, chẳng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí, cho đến Vạn hạnh. Tâm kinh soi thấy Ngũ uẩn đều không. Những pháp này đều là diệu pháp dạy người đối cảnh hiểu biết được tâm. Nếu cứ nhất quyết muốn học rộng hết cả thì chẳng phải là không lợi ích, nhưng vì nghiệp chướng chưa tiêu nên chưa được lợi ích, lại bị mắc bệnh trước!

Khi làm việc chưa thể niệm tại đâu, tâm tại đó là do chưa đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn, tâm vô nhị dụng, nên khó tránh khỏi gián đoạn. Chỉ cần luôn giữ được tâm giác chiếu thì cũng chẳng ngại gì.

Một sự sắc dục là bệnh chung của toàn bộ người đời. Chẳng những kẻ Trung, Hạ bị sắc mê hoặc, ngay cả người Thượng căn, nếu chẳng tự gìn giữ, run sợ, luôn nghĩ kiêng dè thì cũng khó tránh khỏi bị nó mê hoặc. Hãy thử nhìn xem: từ xưa đến nay, không ít bậc hào kiệt phi thường đáng coi là bậc Thánh bậc Hiền, chỉ do chẳng vượt được cái ải này lại thành ra kẻ hạ ngu, bất tiếu, còn vĩnh viễn đọa lạc trong ác đạo.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu Lục đạo chúng sinh trong các thế giới tâm chẳng dâm sẽ chẳng sinh tử tiếp nối”. Các ông tu Tam-muội vốn là để thoát trần lao, nhưng chưa trừ dâm tâm, chưa thoát khỏi trần. Người học đạo vốn là để xuất ly sinh tử, nếu chẳng thể đau đáu trừ khử bệnh này nhất định sẽ khó thoát lìa sinh tử.

Như vậy, pháp môn niệm Phật tuy đới nghiệp vãng sinh, nhưng nếu thói quen dâm dục cố kết sẽ xa cách Phật, khó thể cảm ứng đạo giao. Đối với họa sắc dục này thì không gì bằng đối với hết thảy nữ nhân luôn khởi lên thân tưởng, oán tưởng, bất tịnh tưởng.

Thân tưởng là thấy người già coi như mẹ, thấy người lớn hơn coi như chị, coi người nhỏ hơn như em, với trẻ nhỏ coi như con gái. Dù dục tâm mạnh mẽ, quyết chẳng thể khởi ý niệm bất chánh đối với mẹ, chị, em, con. Thấy hết thảy nữ nhân đều là mẹ, chị, em gái, con gái mình thì đương nhiên chế ngự được dục, dục không do đâu phát khởi được.

Oán tưởng là phàm thấy mỹ nữ, bèn khởi tâm yêu mến. Do tâm yêu mến đó sẽ đọa ác đạo, bao kiếp dài lâu thọ khổ, chẳng thể xuất ly. Như thế thì cái gọi là mỹ lệ, kiều mỵ còn kịch hại hơn giặc cướp, cọp, sói, rắn độc, rết dữ, tỳ sương, trầm độc gấp trăm ngàn lần. Với kẻ oán gia cực lớn ấy, vẫn còn quyến luyến, mơ tưởng, chẳng phải là kẻ mê muội quá sức hay sao?

Bất tịnh tưởng là vẻ xinh đẹp rung động lòng người chỉ là một lớp da mỏng bên ngoài. Nếu bóc lớp da ấy đi, sẽ chẳng can đảm nhìn nữa. Xương, thịt, máu, mủ, phân, tiểu đầm đìa, lông, tóc loạn xị, trọn chẳng có vật nào đáng để người khác yêu thích được cả. Chỉ vì một lớp da mỏng che phủ bèn lầm sinh luyến ái. Bình đẹp đựng phân, không ai ưa mến. Nay lớp da mỏng của mỹ nhân khác gì bình đẹp, những thứ được gói trong da khác gì phẩn uế, sao lại yêu mến lớp da, quên đi các thứ vật dơ chứa trong các lớp da đó, khởi lên vọng tưởng miên man?

Nếu chẳng run rẩy, kinh sợ, quyết liệt trừ khử thói quen này, sẽ chỉ thấy người nữ kia tư chất mỹ lệ, đến nỗi mũi tên ái dục đâm thấu xương mà chẳng chịu nhổ ra. Nếu cứ luôn như vậy mà lại muốn sau khi mất chẳng vào trong bụng người nữ, quyết chẳng thể được! Vào bụng người nữ còn khá, vào bụng súc sinh cái thì chẳng biết làm sao! Thử nghĩ đến đấy, tâm thần kinh hãi!

Nhưng muốn đối với những cảnh trông thấy chẳng khởi nhiễm tâm thì lúc chưa thấy cảnh phải thường tập ba thứ tưởng nói trên, khi thấy cảnh sẽ tự có thể chẳng bị cảnh chuyển. Nếu không dù chẳng thấy cảnh nhưng tâm ý vẫn cứ triền miên, rốt cục vẫn bị tập khí dâm dục trói buộc. Bởi thế, phải nhận chân, gột trừ ác nghiệp tập khí thì tự do mới được có phần.

Bàn đến những ai bị việc đời trói buộc, không cách nào thoát được; nếu trong lúc bị ràng buộc mà có thể chẳng bị chúng xoay chuyển sẽ thoát ngay được những ràng buộc ấy. Như gương chiếu vật, vật đến chẳng cự tuyệt, vật đi chẳng giữ lại. Nếu chẳng hiểu nghĩa này, dù có bỏ sạch việc đời không còn một việc gì thì tâm vẫn cứ tán vọng, ràng buộc kiên cố, chẳng thể gột sạch.

Người học đạo phải làm đúng với bổn phận của mình, tận hết bổn phận. Như vậy, dù suốt ngày việc đời bận bịu, vẫn suốt ngày tiêu dao ngoại vật. Câu nói: “Nhất tâm vô trụ, vạn cảnh câu khai, lục trần bất ố, hoàn đồng Chánh Giác” (nhất tâm vô trụ, vạn cảnh đều khai, chẳng ghét sáu trần, đều coi chúng là Chánh Giác), là nói về điều này vậy.

Muốn cho Chân trí hiển hiện thì hãy nên thường khởi giác chiếu đối với mọi ngôn từ, cử chỉ hằng ngày, chẳng để hết thảy những tình cảm, ý tưởng trái lẽ tạm thời nẩy mầm trong tâm. Thường giữ cho tâm này hư minh đỗng triệt (trống không, sáng suốt, thấu suốt) như gương đặt trên đài, gặp cảnh nào hiện bóng cảnh nấy, chỉ chiếu cảnh trước mắt, chẳng bị chuyển theo cảnh, tốt xấu kệ nó, can chi đến mình? Đến chẳng mong chờ, đi chẳng lưu luyến.

Những tình tưởng trái lẽ nếu vừa mới manh động liền phải nghiêm khắc đối trị, trừ khử cho sạch. Như cùng quân giặc đối địch, chẳng những không cho nó xâm phạm lãnh thổ của mình, mà còn phải chém tướng, đoạt cờ, diệt sạch dư đảng. Phải nghiêm khắc dùng cách chế ngự quân địch như vậy để tự trị mình, đừng lười nhác, đừng sao nhãng. Khắc kỷ, giữ lễ, chú trọng kính, giữ lòng thành. Những khí giới để tự đối trị mình thì nên dùng bốn điều không của Nhan Tử, ba điều cảnh tỉnh của Mạnh Tử, cách hạn chế lỗi lầm, tự biết mình sai của ông Cừ Bá Ngọc.

Lại phải nên nhiệt thành kinh sợ những tình tưởng trái lẽ như té xuống vực sâu, như đi trên băng mỏng. Đối địch cùng chúng thì quân oai vang dậy khiến tặc đảng tấm lòng nguội lạnh, hoảng hốt, sợ vướng phải cơn tàn sát diệt chủng nặng nề, chỉ mong hưởng hồng ân vỗ về. Từ đấy, chúng sẽ khuất phục đầu hàng, quy thuận sự giáo hóa, đổi sạch tâm trước, chăm tu đức sau. Tướng chẳng ra khỏi cửa, quân chẳng đổ máu. Toàn bộ giặc cướp, oán cừu đều thành con đỏ, bọn phản loạn cùng hóa thành dân lành. Trên cai trị, dưới tuân phục, cả nước phẳng lặng, chẳng dấy can qua, ngồi hưởng thái bình.

Những điều vừa nói trên đây là do cách vật nên trí tri[17], do trí tri nên tự khắc sẽ làm sáng tỏ đức sáng. Chân thành và minh đức nhất trí thì phàm sẽ thành Thánh. Nếu là kẻ căn khí hèn kém, chưa thể tự thâu liễm mình, hãy nên bắt chước ông Triệu Duyệt Đạo: ngày làm điều gì, đêm đốt hương bẩm bạch cùng Thượng đế. Điều gì mình chẳng dám bẩm bạch thì chẳng dám làm.

Ông Viên Liễu Phàm chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, mạng do chính mình lập, phước do chính mình cầu, chứ tạo vật[18] chẳng thể tự tiện chiếm quyền. Ông vâng giữ phép Công Quá Cách: hễ khởi tâm động niệm, nói năng, làm gì dù việc thiện hay ác nhỏ nhặt đều ghi lại, ngõ hầu điều thiện ngày càng, điều ác mỗi ngày mỗi diệt.

Lúc đầu, thiện ác xen tạp, lâu dần chỉ còn thiện không còn ác. Vì thế, có thể chuyển vô phước thành hữu phước, chuyển yểu thọ thành trường thọ, chuyển không con cháu thành lắm con cháu. Ngay trong đời này đã dự vào bậc Thánh Hiền, báo hết sẽ cao đăng cõi Cực Lạc. Việc làm trở thành khuôn mẫu cho đời, lời nói trở thành pháp thức cho đời. Họ là trượng phu, ta cũng như thế, sao lại tự khinh đến nỗi đành chịu thua kém vậy?

Nếu như căn cơ hèn kém, chưa thể chứng nhập, nếu ước trên Sinh diệt môn để luận về nguyên do, hậu quả thì là do mê tâm đuổi theo cảnh, hướng ngoại rong ruổi tìm cầu, khiến toàn thể trí huệ, đức tướng biến thành vọng tưởng, chấp trước. Vì thế, phải nên chú trọng chỗ tinh yếu, chú trọng chuyên nhất, chấp trì Thánh hiệu Di-đà, tin thật, nguyện thiết, mong cầu vãng sinh Tây Phương.

Hành trì lâu ngày, tâm và Phật như một, chẳng lìa ý niệm hiện tại, triệt chứng Ngũ uẩn là không. Vọng tưởng, chấp trước đã diệt; trí huệ, đức tướng cũng không còn. Do tâm tịnh, cõi nước sẽ tịnh; chẳng lìa ngay nơi này, thầm nhập cõi Tịch Quang. Chỉ có mỗi cách này là cách để chúng ta rốt ráo an thân lập mạng mà thôi!

Người sống trong thế gian huyễn trụ mấy mươi năm. Kể từ khi có hiểu biết đến nay, ngày đêm tính toán bộn bề, ngổn ngang, không điều gì chẳng phải là để nuôi thân mình cùng người nhà, giữ thể diện, sao cho con cháu quý hiển mà thôi! Xét cội nguồn căn bệnh ấy, chỉ là do chấp trước có ngã, chẳng chịu buông xuống. Nỗi lo nghĩ ấy dính chắc, dù đức Phật có vì mình thuyết pháp cũng chẳng hiểu nổi. Trái lại, còn chẳng thèm bận tâm đến diện mạo vị chủ nhân sẵn có của chính mình, mặc tình lưu chuyển theo nghiệp, trầm luân muôn kiếp, chẳng đáng buồn ư?

Tu hành, trọng yếu là đối trị tập khí phiền não. Tập khí giảm một phần, công phu tiến một phần. Có kẻ càng ra sức tu hành, tập khí càng phát động; ấy là do chỉ biết tu trì theo sự tướng, chẳng biết phản chiếu hồi quang, khắc trừ vọng tình trong tâm chính mình nên mới đến nỗi thế. Hãy nên thường sắp sẵn cách đề phòng thì gặp cảnh đụng duyên, tập khí sẽ chẳng phát.

Nếu bình thời biết được thân tâm đây toàn là huyễn vọng, trọn chẳng thể cầu được thật thể, thật tánh của cái ngã. Đã không có ngã sao còn có chuyện vì cảnh, vì người nảy sinh phiền não? Đấy chính là phương pháp giải quyết tối thượng thiết yếu vậy.

Nếu như chẳng thể hiểu chắc thật ngã là không thì hãy dùng pháp Ngũ Đình Tâm Quán mà đức Như Lai đã dạy để đối trị (Ngũ Đình Tâm Quán là dùng năm pháp để điều hòa, ngưng lắng tâm khiến tâm an trụ, chẳng bị cảnh chuyển). Tức là: chúng sinh lắm tham dùng Bất tịnh quán, chúng sinh nhiều sân dùng Từ bi quán, chúng sinh hay tán loạn dùng Sổ tức quán, chúng sinh ngu si dùng Nhân duyên quán, chúng sinh nhiều chướng dùng Niệm Phật quán.

Tham nghĩa là thấy cảnh bèn sinh lòng yêu thích. Chúng sinh trong Dục giới đều do dâm dục mà sinh. Dâm dục do ái mà sinh. Nếu có thể đối với thân mình, thân người, từ trong ra ngoài, quán sát kỹ mỗi thứ sẽ chỉ thấy cáu ghét, mồ hôi, đờm, dãi, tóc, lông, răng, móng, xương, thịt, máu, mủ, đại tiện, tiểu tiện, thối như xác chết, bẩn như nhà cầu! Ai còn sinh tâm tham ái đối với vật ấy? Tham ái đã dứt thì tâm địa thanh tịnh. Dùng tâm thanh tịnh niệm danh hiệu Phật, như chất ngọt hòa lẫn, như lụa trắng ăn màu, dùng Nhân địa tâm khế hợp Quả địa giác, sự ít công nhiều, lợi ích khó nghĩ được.

Sân là thấy cảnh tâm khởi giận dữ, chán ghét. Người phú quý thường hay nóng giận là do với các chuyện muốn được như ý thì cần phải có người làm, có chút việc gì trái ý liền sinh sân nộ. Nhẹ thì dùng lời ác chửi mắng, nặng thì roi, gậy đập thẳng cánh, chỉ cốt khoái ý mình, chẳng đoái hoài người khác đau lòng.

Lại khi sân tâm khởi lên, chẳng những vô ích cho người khác, chính mình cũng bị tổn. Nhẹ thì tâm ý nóng nảy, bực bội; nặng thì gan lẫn mắt bị tổn hại. Vì thế, thường giữ được một khối nguyên khí thuần hòa trong tâm thì tật bệnh tiêu diệt, phước thọ tăng trưởng.

Xưa kia, vua A-xà-thế cả đời thờ Phật, giữ vững năm giới, lúc lâm chung vì người hầu cầm quạt đuổi ruồi đứng hầu lâu đâm ra mỏi mệt, để quạt rớt trúng mặt vua. Vua sinh tâm sân hận, ngay khi ấy mạng chung. Do một niệm ấy, liền đọa thân mãng xà. Do sức túc phước còn biết được nhân, bèn cầu Sa-môn giảng cho Tam quy Ngũ giới, liền thoát thân mãng xà, sinh lên trời. Do đấy biết rằng, thói quen sân hận tai hại rất lớn. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Một niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng mở”. Cổ đức bảo:

“Sân thị tâm trung hỏa,

Năng thiêu công đức lâm.

Dục học Bồ-tát đạo,

Nhẫn nhục hộ sân tâm”.

“Sân là lửa trong tâm,

Đốt sạch rừng công đức,

Muốn học đạo Bồ-tát

Nhẫn nhục ngừa tâm sân”.

Đức Như Lai dạy chúng sinh nhiều sân tu Từ bi quán như sau: coi hết thảy chúng sinh đều là cha mẹ trong quá khứ, đều là chư Phật trong tương lai. Đã là cha mẹ trong quá khứ thì hãy nghĩ đến ân đức nuôi nấng trong những đời trước, thẹn chưa báo đáp được, lẽ đâu với chuyện chẳng vừa ý nhỏ nhặt lại ôm lòng phẫn nộ? Họ đã là chư Phật trong tương lai, ắt sẽ rộng độ chúng sinh. Mình còn chưa giải quyết sinh tử trọn vẹn, phải mong họ đến độ thoát cho.

Chẳng những với chuyện chẳng vừa ý nhỏ nhặt không sinh sân nộ; dù là chuyện táng thân mất mạng cũng chỉ sinh hoan hỷ, chẳng sinh sân hận. Vì thế, lúc Bồ-tát bỏ đầu, mắt, tủy, não đều tưởng người cầu xin những thứ ấy là thiện tri thức, tưởng là ân nhân, tưởng là người thành tựu Vô Thượng Bồ-đề đạo cho mình. Cứ xem phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm sẽ tự biết.

Hơn nữa, một niệm tâm tánh của chúng ta cùng với một niệm tâm tánh của Phật không hai. Chỉ vì mê trái bổn tâm, chấp chặt ngã kiến, nên hết thảy các duyên đều thành đối đãi. Như cái bia để bắn đã lập thì các mũi tên sẽ đều gim vào đó. Nếu biết được tâm ta chính là tâm Phật, tâm Phật trống không, vô sở hữu, hệt như hư không, sum la vạn tượng không gì chẳng bao quát trong ấy.

Lại cũng như biển cả, trăm sông, các dòng, không dòng nước nào mà biển chẳng hứng nhận, như trời che khắp, như đất bình đẳng nâng đỡ, để tự lập đức. Nếu ta vì sự trái ý nhỏ nhặt bèn sinh nóng giận, chẳng phải là đã thu hẹp cái lượng, tự chôn vùi cái đức hay chăng? Dù có đủ Phật tâm lý thể, nhưng khởi tâm động niệm toàn dùng sự phàm tình, nhận vọng là chân, lấy tớ làm chủ. Nghĩ như thế thật đáng hổ thẹn.

Nếu bình thời luôn nghĩ như thế thì tâm lượng rộng lớn, không gì chẳng dung được, thấy người cũng hệt như mình, chẳng thấy đây kia, gặp nghịch cảnh còn nhận xuôi theo được, huống hồ là chuyện bất như ý nhỏ nhặt lại sinh nóng giận hay sao?

Gọi là kẻ ngu si chẳng phải là nói về kẻ hoàn toàn vô tri thức, mà chính là nói đến những người trong đời đối với cảnh duyên thiện ác, chẳng biết đấy đều là do túc nghiệp chuốc lấy nên hiện tại cảm thọ, bảo lầm là không có nhân quả báo ứng và hết thảy chúng sinh đời trước, đời sau v.v… chẳng có con mắt trí huệ. Chẳng phải là hạn chấp Đoạn, cũng là phường chấp Thường.

Họ bảo con người bẩm thọ khí huyết cha mẹ mà sinh ra. Trước lúc sinh ra, vốn chẳng có vật gì; cũng như chết đi, thân hình đã mục nát thì hồn cũng phiêu tán; làm sao có đời trước và đời sau được? Hàng Nho sĩ câu nệ, hủ bại phương này (tức Trung Hoa) đa phần nói như vậy.

Chấp Thường là nói người luôn là người, vật luôn là vật, chẳng biết nghiệp do tâm tạo, hình tùy tâm chuyển. Thời cổ có kẻ cực độc đang còn sống biến ra thân rắn, người cực tàn bạo đang khi còn sống biến thành thân hổ. Đang khi còn sống, nghiệp lực mãnh liệt còn biến đổi được thân; huống hồ chết đi, trước khi tái sinh, thức bị chuyển biến theo sự lôi kéo của nghiệp ư? Bởi vậy, Phật nói mười hai nhân duyên chính thức là luận về ba đời. Nhân trước ắt cảm quả sau, quả sau ắt phải có nhân trước. Thiện ác báo ứng, họa phước xảy đến đều do mình làm, mình chịu, chẳng phải trời giáng. Bất quá trời chỉ là người đứng ra thừa hành thôi. Sinh tử tuần hoàn chẳng có cùng cực. Muốn khôi phục bổn tâm để liễu sinh tử mà bỏ “tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây Phương” sẽ chẳng thể được!

Ba thứ tham, sân, si là cội gốc sinh tử. Ba thứ tín, nguyện, hạnh là diệu pháp liễu sinh tử. Muốn bỏ ba pháp kia (tham, sân, si) để tu ba pháp này (tín, nguyện, hạnh) thì ba pháp này đắc lực, ba pháp kia tự diệt. Một pháp quán Sổ tức bất tất phải dùng. Hãy nên trong lúc niệm Phật, lắng tai nghe kỹ, cách nhiếp tâm này tương tự phép Sổ tức, nhưng lực dụng hơn phép Sổ tức một trời, một vực. Phép quán niệm Phật nên đọc trong Ấn Quang Văn Sao và các trước thuật Tịnh độ sẽ biết.

Hỏi: Nếu như nói dù tán thân mất mạng cũng chỉ sinh hoan hỷ, chẳng sinh sân hận thì giả sử có kẻ ác muốn đến hại mình, mình chẳng lo toan gì, cứ mặc cho nó sát hại mình ư?

Đáp: Phàm người tu hành, có kẻ là phàm phu, có người là bậc Bồ-tát đã chứng Pháp thân. Lại có người lấy việc duy trì thế đạo làm chánh, có người chỉ lấy việc liễu giải tự tâm làm trọng. Nếu là hạng chỉ lo liễu giải tự tâm và hàng Bồ-tát đã chứng Pháp thân thì sẽ hành động như đã nói. Bởi lẽ, họ thấy mình và vật hệt như nhau, sinh tử như một.

Nếu là hạng phàm phu, muốn duy trì thế đạo thì cứ an lòng học theo Bồ-tát, tâm đại từ bi, không gì là chẳng dung. Xử sự vẫn thuận theo lẽ thường thế gian: hoặc là dùng cách khuất phục, chế ngự để nhiếp phục, hoặc dùng nhân từ để cảm hóa… nhiều cách khác nhau; nhưng trong tâm trọn chẳng được hung tợn, nóng giận, cố kết oán hận.

Những điều nói trong đoạn trước là nêu tình huống giả tưởng để người tu nhờ đó tiêu diệt tập khí nóng giận. Nếu phép quán này thành thục, tập khí sân hận tự diệt, dù gặp phải cảnh thật sự hại đến thân cũng vẫn giữ được tâm thản nhiên, thực hiện đại bố thí. Nhờ công đức ấy liền sinh Tịnh độ. So với việc giết chóc lẫn nhau, ba kiếp dài lâu đền trả, chẳng phải là khác biệt một trời, một vực đấy ư?

Sân tâm chính là thói quen từ đời trước. Nay cứ nghĩ mình đã chết mặc cho dao chặt hay hương bôi cũng chẳng can dự gì đến mình. Với tất cả những cảnh chẳng thuận tâm, do nghĩ mình đã chết, sân làm sao còn khởi được nữa?

Nói đến sân tâm là nói đến thói quen từ đời trước. Nay đã biết sân là có hại, vô ích, đối với hết thảy các sự hiện hữu hay nên dùng lượng biển rộng trời cao để dung nạp. Như vậy thì tập tánh rộng rãi trong đời này sẽ chuyển biến được tập tánh hẹp hòi trong những đời trước. Nếu chẳng gia công đối trị, tập khí sân hận càng tăng, tai hại chẳng nhẹ.

Còn khi niệm Phật thì phải căn cứ trên tinh thần, khí lực của mình để làm chuẩn mà niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, niệm thầm và Kim Cang niệm (tức là niệm có tiếng se sẽ, người khác chẳng nghe thấy. Những người trì chú gọi cách này là Kim Cang niệm). Chẳng được quá mãnh liệt đến nỗi mắc bệnh. Cái tâm quá mãnh liệt ấy cũng là cái bệnh “dục tốc” (mong cho mau đạt kết quả).

Nếu nay chẳng thể niệm ra tiếng, há trong tâm chẳng niệm thầm được hay sao? Sao lại chỉ hạn chế trong mười niệm? Huống hồ lúc bệnh nằm trên giường, há nên để tâm trống rỗng như bị rửa sạch, trọn chẳng niệm gì hoặc niệm chuyện khác? Sao bằng càng niệm nhiều danh hiệu Phật?

Lúc ấy, phải nên giao gấp mọi việc cho người nhà làm thay, luôn nghĩ mình sắp chết, tưởng sắp đọa địa ngục, trong tâm không còn dính mắc sự gì. Dùng tâm thanh tịnh ấy nhớ tưởng Phật tượng và thầm niệm Phật danh cũng như tượng Quán Thế Âm Bồ-tát và danh hiệu Ngài. Nếu thật sự làm được như thế thì nghiệp chướng quyết định tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, bệnh tật thuyên giảm, thân tâm khang kiện.

Bệnh của các hạ thuộc về túc nghiệp, niệm Phật quá mạnh mẽ tạo duyên cho bệnh phát hiện, chẳng phải hoàn toàn do niệm Phật quá mãnh liệt nên mắc bệnh. Nếu ông chẳng niệm Phật thì cũng do nhân duyên khác mà bị bệnh. Trên đời, kẻ không niệm Phật rất nhiều, há không có một ai cũng mắc phải căn bệnh đó, cứ khỏe mạnh mãi ư? Hiểu được điều này sẽ chẳng phải tự lầm lẫn mà bảo là niệm Phật đến bệnh, chỉ tổn hại, không ích lợi gì!

Bệnh và ma đều do túc nghiệp mà thành. Ông chỉ nên chí thành, khẩn thiết niệm Phật, thì bệnh tự thuyên giảm, ma tự rời xa. Còn như tâm ông chẳng chí thành, hoặc khởi các ý niệm bất chánh như tà dâm v.v… thì toàn thể cái tâm đọa trong hắc ám, khiến ma quấy nhiễu. Lúc niệm Phật xong hồi hướng, ông nên hồi hướng cho hết thảy oan gia trong đời quá khứ, khiến họ đều thấm đẫm lợi ích niệm Phật của ông, siêu sinh thiện đạo. Ngoài ra, chẳng quản đến gì hết. Ma có phát ra tiếng thì cũng chẳng quan tâm đến rồi sợ hãi. Nó im hơi lặng tiếng, cũng chẳng quan tâm đến mà sinh hoan hỷ. Chỉ chí thành, khẩn thiết niệm, tự nhiên nghiệp chướng tiêu, mà phước huệ thảy đều tăng trưởng. Khi xem kinh điển, chẳng được làm như kẻ đời nay đọc sách, trọn chẳng có chút nào cung kính, phải trân trọng dường như Phật, Tổ, Thánh Hiền giáng lâm mới được lợi ích thật sự. Nếu ông làm được như vậy thì tâm địa chánh đại quang minh, bọn tà quỷ, tà thần kia không còn đất dung thân nữa!

Nếu tâm ông tà trước thì tà chiêu cảm tà, làm sao có thể khiến cho chúng xa lìa, không quấy nhiễu được? Quỷ thần dù có Tha tâm thông, nhưng thần thông của chúng nhỏ và gần. Nếu nghiệp tận, tình không sẽ hệt như gương báu đặt trên đài, có hình liền hiện bóng. Ông chẳng chí tâm niệm Phật lại toan nghiên cứu chân tướng này, chẳng biết tâm này liền thành “ma chủng” (dòng giống ma).

Ví như gương báu chẳng có mảy may trần cấu sẽ tự chiếu trời soi đất. Cái tâm ông bị trần cấu phủ kín dày đặc, lại muốn được chiếu sáng như vậy, khác nào tấm gương bị bụi phủ dày kín trọn chẳng thể tỏa ánh sáng. Nếu có phát sáng cũng chỉ là ánh sáng yêu quái, chẳng phải ánh sáng của gương! Hãy bỏ việc đó ra ngoài tâm tưởng, hãy nên như lâm nạn lửa nước, như cứu đầu cháy mà niệm Phật thì không nghiệp hay ma nào chẳng tiêu cả.

Người học đạo phàm gặp các thứ chẳng như ý chỉ nên dùng đạo để hiểu. Cảnh nghịch xảy đến bèn vui lòng chịu, dù có gặp phải những sự nguy hiểm gì, lúc ấy cũng chẳng đến nỗi kinh hoàng, thất chí, làm điều thất thố. Chuyện đã qua hãy để cho nó qua như giấc mộng đêm trước, sao còn ủ mãi trong lòng đến nỗi thành bệnh hoảng hốt? Ông đã muốn tu hành, phải biết hết thảy cảnh duyên đều do túc nghiệp cảm vời.

Lại phải nên biết: chí thành niệm Phật sẽ chuyển được nghiệp. Chúng ta chẳng làm chuyện thương thiên tổn đức thì sợ cái gì chứ? Người niệm Phật thiện thần hộ hựu (bảo vệ giáng phước), ác quỷ tránh xa, sợ cái gì cơ chứ? Nếu ông cứ sợ mãi sẽ bị vướng ma sợ, rồi oan gia trong vô lượng kiếp thừa dịp tâm ông hoảng sợ đến dọa nạt ông, khiến ông mất trí hóa cuồng để báo oán xưa.

Chớ có nói: “Nếu tôi còn niệm Phật, chỉ sợ thình lình sẽ bị như thế”. Chẳng biết rằng toàn thể chánh niệm của ông đã quy vào nỗi sợ, nên khí phần xa cách Phật, tương thông với ma, chẳng phải Phật không thiêng! Do tâm ông đã mất chánh niệm nên đến nỗi niệm Phật chẳng được lợi ích toàn phần vậy!

Chỉ mong ông thấy chữ viết của Quang, bèn quyết liệt gột bỏ tâm trước. Ông chỉ một chồng, một vợ còn lo nỗi gì? Dẫu cho nghiệp chướng hiện tiền, sợ gì chẳng tiêu diệt được nó? Chỉ vì chẳng sợ nên giữ được chánh niệm, thành ra làm việc gì cũng đích đáng, chân thần ổn định nên tà chẳng thể xâm.

Nếu không, do tà chiêu tà, túc oán đổ tới, gặp sự không làm chủ được, hành động hoàn toàn thất thố, chẳng đáng buồn ư? Tôi nay vì ông tính kế: hãy nên buông bỏ hoài bão, chẳng nên toan tính hết thảy mọi việc, chẳng nên đảm đương, lo lắng mọi việc, chỉ sợ hành vi có tỳ vết, chẳng sợ họa hoạn, quỷ thần.

Nếu bệnh khổ đến hồi kịch liệt chẳng chịu đựng nổi thì ngoài việc sáng chiều niệm Phật, hồi hướng ra, hãy chuyên tâm dốc chí niệm Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Quán Thế Âm Bồ-tát hiện thân trong sát-na, tầm thinh cứu khổ. Người gặp cơn nguy cấp nếu có thể trì tụng, lễ bái Ngài thì không ai là chẳng được cảm ứng, rủ lòng từ gia hộ khiến thoát khổ não, hưởng yên vui vậy.

Thầy thuốc dù giỏi cũng chỉ trị được bệnh, không trị được nghiệp. Như Tử Trọng ruột bị loét nặng, thầy thuốc bảo không giải phẫu không xong. Bà thím Tư của ông chẳng đành lòng nên chẳng chữa, cùng Đức Chương liều mạng niệm Phật, niệm kinh Kim Cang. Năm ngày khỏi bệnh. Bệnh này đáng kể là cực nặng, cực nguy hiểm, nhưng chẳng chữa, sau năm ngày liền lành. Bệnh điên của Tử Tường thuộc về túc nghiệp, bà thím Tư của ông do chí thành lễ tụng, nửa năm liền khỏi.

Cha ông đã quy y Phật pháp, lẽ ra nên tin lời Phật, chẳng nên tin theo thầy thuốc Tây, phải đến bệnh viện của họ để chữa. Nếu như hết thảy bệnh đều phải được thầy thuốc trị mới lành, không thầy thuốc chẳng xong thì từ thời cổ, Hoàng đế và những kẻ phú quý lẽ ra vĩnh viễn không bệnh tật, cũng vĩnh viễn chẳng bị tử vong. Thế nhưng, kẻ bần tiện vừa ít bệnh vừa sống lâu, người phú quý lắm bệnh lại thường đoản thọ. Đó là vì cớ gì? Một là do mình tự tạo thành bệnh, hai là thầy thuốc gây ra bệnh. Do hai công năng tạo tác này, muốn thoát bệnh khổ có được hay chăng?

Mong ông thưa cho cha hiểu, bất tất phải lên Thượng Hải tìm thầy thuốc Tây, cứ ở nhà cầu nơi đại y vương A-di-đà Phật, Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ tự có thể chẳng cần đến thuốc mà lành bệnh. Cầu thầy thuốc Tây chỉ hy vọng chừng một nửa, cầu đại y vương may ra thân thể sẽ được mạnh, mà dù thân thể chưa khỏe lại, thần thức chắc chắn thấy thư thái. Nếu sai lầm muốn được mạnh liền, bỏ hết những giới đã trì khi trước, thật chẳng khác nào rạch thịt để tự bị thương, chỉ tổn hại không ích gì. Khi Tây y chưa truyền vào Trung Quốc, Trung Quốc có bệnh gì cũng chẳng trị được ư? Bởi vậy nên buông vọng tưởng xuống, đề khởi chánh niệm sẽ cảm ứng đạo giao, tự có thể lành bệnh hoàn toàn.

Nghiệp chướng nặng, tham sân mạnh mẽ, thân yếu đuối, tâm khiếp nhược thì chỉ nên nhất tâm niệm Phật, lâu ngày các bệnh sẽ tự lành. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh nhiều dâm dục, nóng giận, ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ xa lìa được những sự ấy”. Niệm Phật cũng thế, chỉ nên tận tâm kiệt lực chẳng hề ngờ vực thì không cầu cũng được.

Mỗi ngày, ngoại trừ lúc phải làm mọi việc thuộc bổn phận mình ra, hãy chuyên tâm niệm danh hiệu Phật. Sáng tối trước Phật, kiệt thành tận kính, khẩn thiết sám hối túc nghiệp từ vô thủy. Lâu ngày như thế sẽ có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn mà chẳng hay, chẳng biết. Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát liền được ly dục”. Với sân hận, ngu si cũng thế. Như vậy thì chí thành niệm Thánh hiệu A-di-đà, Quán Âm, ba thứ hoặc tham, sân, si sẽ tự tiêu diệt.

Hơn nữa, nay đang lúc cõi đời hoạn nạn, ngoài việc niệm Phật ra nên niệm thêm Thánh hiệu Quán Âm, trong âm thầm sẽ có sự chuyển biến chẳng thể nghĩ bàn, kẻo đến lúc túc nghiệp bất chợt hiện đến, không cách chi tránh thoát.

Quán Thế Âm Bồ-tát trong kiếp quá khứ đã thành Phật từ lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, chỉ vì lòng từ bi thiết tha, dù an trụ trong cõi Thường Tịch Quang, vẫn hiện thân trong ba cõi Thật Báo, Phương Tiện, Đồng Cư. Tuy là thường hiện thân Phật, Ngài cũng còn hiện đủ các thân Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác và thân trời, người sáu nẻo. Tuy Ngài thường hầu Di-đà nhưng hiện thân khắp trong mười phương vô tận Pháp giới. Đó là: hễ chỉ có lợi ích thì không điều gì Ngài chẳng vận dụng. Nên dùng thân nào để độ được, Ngài liền hiện thân đó để thuyết pháp cho người đáng độ.

Phổ Đà Sơn là chỗ Bồ-tát ứng tích. Muốn cho chúng sinh có nơi để gieo lòng thành nên Bồ-tát thị hiện ứng tính nơi núi đó; nào phải Bồ-tát chỉ ngự trong núi Phổ Đà, chẳng ở nơi khác đâu? Một vầng trăng vằng vặc giữa trời, nhưng vạn con sông in bóng. Dù nhỏ như một chước, một giọt nước, nơi nơi đều hiện toàn bộ khuôn trăng. Nếu nước vừa đục vừa xao động, trăng chẳng thể hiện phân minh.

Tâm chúng sinh như nước, nếu nhất tâm chuyên niệm Bồ-tát, Bồ-tát liền ngay trong niệm ấy, sẽ ngầm hoặc hiển nhiên gia hộ khiến người niệm được lợi ích. Nếu tâm chẳng chí thành, chẳng chuyên nhất thì cũng khó cứu hộ, nghĩa này rất sâu, hãy nên đọc bài Thạch Ấn Phổ Đà Sơn Chí Tự (bài tựa cho bản in thạch cuốn Phổ Đà Sơn Chí) trong Ấn Quang Văn Sao sẽ biết.

Ngài có tên là Quán Thế Âm vì khi tu nhân, Ngài do quán và nghe nơi tánh mà chứng Viên thông và lúc đã đắc quả, Ngài xem xét âm thanh xưng danh hiệu Ngài để ban cho sự cứu giúp. Vì thế, Ngài tên là Quán Thế Âm.

Phổ Môn là đạo Bồ-tát rộng lớn không ngằn mé, tùy thuận khắp căn tánh của hết thảy chúng sinh, khiến cho họ biết đường về nhà, chẳng lập riêng một môn nào.

Chẳng hạn như trong đời có ngàn căn bệnh thì cũng phải có vạn loại thuốc, chẳng thể chấp chặt vào một pháp nào. Tùy theo họ mê nơi đâu và chỗ nào họ dễ ngộ mà Bồ-tát chỉ điểm cho. Như sáu căn, sáu trần, bảy đại, pháp nào cũng có thể dùng để chứng Viên thông. Vì thế, bất cứ pháp nào cũng là cửa để ra khỏi sinh tử, thành Chánh Giác, vì thế gọi là Phổ Môn. Nếu Bồ-tát chỉ ở Nam Hải thì chẳng đáng gọi là Phổ được!

Chú thích:

15. Đả thất: tham dự Phật thất cùng với đại chúng, hay tự mình kết thất để niệm Phật hay tọa thiền, trì chú v.v… Một thất là bảy ngày.

16. Tái lai: sinh lại trong nhân gian.

17. Cách vật trí tri, minh minh đức: hiểu theo nghĩa thông thường, “cách vật trí tri”, nghĩa là nghiên cứu mọi sự nhằm hiểu rõ lý lẽ (vì thế, trước đây những môn nghiên cứu khoa học tự nhiên hay gọi là cách trí). Nhưng tổ Ấn Quang hiểu hơi khác. Trong pháp thoại tại Tức Tai Hộ Quốc ở Thượng Hải, Tổ đã giảng như sau: “Họ (chỉ hạng Tống Nho) bảo “trí tri” là suy xét tri thức của mình đến cùng cực, “cách vật” là hiểu cùng tận cái lý của mọi sự vật trong thiên hạ; nào hay “vật” chính là tư dục trong tâm mình. Do có tư dục nên tự tâm bị chướng ngăn. Bởi thế, tâm vốn sẵn đủ chơn tri nhưng không cách nào hiển hiện được. “Cách trừ” (hiểu biết và trừ khử) được tư dục thì chơn tri sẵn có sẽ tự hiển hiện. Hễ chơn tri đã hiển thì tâm sẽ chánh, ý sẽ thành!”.
18. Tạo vật: đối với người Tàu, tạo vật đồng nghĩa với tạo hóa. Không như trong thần học Công giáo, tạo hóa (creator) là Chúa trời, còn tạo vật là những vật được Chúa tạo ra (creature).

Ấn Quang Đại Sư





Có phản hồi đến “9. Đối Trị Tập Khí”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com