Toronto, Canada – Dọc theo con đường tơ lụa – mạng lưới các con đường thương mại cổ xưa liên kết Trung Hoa và phương Tây là một hệ thống phức hợp của 500 hang đá được tạc vào vách núi phía trên sông Daquan.
Các hang núi, được gọi là hệ thống hang Mogao, tọa lạc gần với thành phố Dunhuang, nằm bên rìa của sa mạc Gobi hiện nay nằm ở phía tây bắc của Trung Hoa. Cho đến thời kỳ tan rã của chế độ Mông Cổ vào thế kỷ thứ 14, các thương nhân, người hành hương và những người du lịch thường dừng lại tại các trung tâm thương mại và tôn giáo để củng cố, bảo đảm, cầu nguyện cho chuyến đi phía trước hay cảm ơn vì họ còn sốn sót. Đây là trước khi Hồi Giáo xâm chiếm tôn giáo và các con đường bắt đầu thống trị việc buôn bán của Trung Hoa với thế giới bên ngoài.
Được trang trí với những tượng Phật và các bức tranh trên tường, những bàn thờ riêng biệt trong hang có niên đại từ thế kỷ thứ tư thật sự là những nơi tu tập Phật giáo và thờ cúng cho hơn 1000 năm. Những nhà cầu nguyện trong hang động được bảo trợ bởi những người địa phương như là: các nhà sư hay các sư cô, những tầng lớp thượng lưu và quan chức ngoại quốc và kể cả các hoàng đế Trung Hoa. Các hang động khác là do các thương nhân, những quan chức quân đội hay cộng đồng Phật tử tại gia xây dựng. Các nhà sư thường xuyên đến thăm và đãnh lễ Đức Phật và các thành viên của cộng đồng Phật gáo sẽ tổ chức vào những ngày lễ trọng đại của Phật giáo tại đây. Hàng trăm năm sau, một ai đó vẫn có thể thấy những móc sắt trên tường nơi các biểu ngữ đã từng được treo và dấu vết nơi đèn dầu được thắp sáng trên bàn thờ trong các kỳ lễ hàng năm.
Một trong những hang động, gọi là hang thứ 17 hay là “hang thư viện” nguyên khởi được sử dụng làm nơi quàng xác của một nhà sư có tên là Hong Bian. Theo ký ức cổ xưa về Hong Bian, những người địa phương đã bắt đầu lưu trữ kinh điển và bản đồ trong hang cho đến khi được đóng kín, có lẽ là đầu thế kỷ thứ 11.
Sau đó vào năm 1900, nhà sư người Dao tên là Wang Yuanlu đã mở hang động và khám phá cái được xem là nơi chứa các kinh cổ lớn nhất thời trung cổ ở Eurasia – khoảng 60,000 bản, nhiều bản bị thiếu, cũng như rất nhiều bức tranh và hàng chục tượng Phật và biểu ngữ có niên đại từ thế kỷ thứ 9,10,11. Trong đó gồm có những tài liệu thế tục cũng như về lịch sử, văn học và tôn giáo, chủ yếu là Phật giáo nhưng cũng có cả Đạo Giáo, Thiên Chúa Giáo và Manichaeism, thường được viết ở phía sau của những bản kinh tái sử dụng. Một vài năm sau đó, nhà sư Wang Yuanlu bắt đầu bán các bản kinh đến cho những nhà thám hiểm học giả phương Tây, những người mang theo kho tàng các loại đồ tạo tác. Nững loại đồ tạo tác sau đó được lan trải khắp thế giới – đến Luân Đôn, Delhi, Pari và St. Petersburg. Một bức tranh khắc gỗ này có niên đại từ thế kỷ thứ 10 là một bản kinh cầu nguyện Phật giáo dần dần đưa đường đến viện bảo tàng hoàng gia Ontario (ROM), trong sự trao đổi với bảo tàng Anh quốc. Tất cả những bộ sưu tập kinh đã được kỹ thuật số bởi dự án Dunhuang thế giới có trụ sở ở tại thư viện Anh Quốc và có thể được tìm thấy trên mạng trợ giúp cho các học giả.
Vậy mục đích của thư viện trong hang Dunhuang là gì? Liệu đó có phải là một điểm xử lý rác thiêng liêng? Sau tất cả, một người không chỉ đơn giản là vức bỏ các bộ kinh cổ Phật giáo mà không gây đến các nguy hại về nghiệp báo. Và vì sao hang thứ 17 bị đóng? Liệu đó có phải là vì do mối đe dọa từ sự xâm lược của Hồi giáo? Đây chỉ là một vài giả thuyết và bí mật – một số hiểu lầm – đã thu hút các nhà khảo cổ và học giả hơn 100 năm.
Amanda Goodman, giáo sư của Phật giáo Trung Hoa tại khoa U và T của khoa nghiên cứu tôn giáo có một học thuyết đơn giản hơn “Tôi nghĩ đó là một kho chứa tư liệu không chính thức của một nhóm cá nhà sư địa phương có một số lượng khá lớn các tư liệu cần được lưu trữ, có lẽ là để sửa chữa hay được sử dụng để bổ sung cho các thư viện địa phương. Nhà tưởng niệm của thầy Hong Bian bị rơi hư hỏng và các tài liệu vẫn tiếp tục được lưu trữ, như là các ngăn của nhà bếp. Tại một thời điểm nào đó, nó đầy và được đóng lại.”
“Truyền thống Phân loại theo cách của người Trung Hoa không phải là sử dụng A-Z mà là theo hệ thống đánh số bản thảo, sau đó được gom thành nhóm hay hiện trạng như là “bị hư hỏng” hay là “nguyên sơ”. Goodman giải thích. “Tuy nhiên trong sự phấn khởi của họ, làn sóng đầu tiên của những nhà thám hiểm đã tháo bỏ lớp bao vải của các bản thảo đầu tiên, để lại hậu quả tai hại. Chúng ta có lẽ sẽ không chắc có câu tả lời vì sao nội dung trong hang thứ 17 được lưu trữ chung với nhau.”
Và khi nào? Các học giả đoán là nó khoảng vào năm 1003 CE, trước sau khoảng 5 năm, dựa vào sự thật rằng những tài liệu gần đây nhất là từ đầu thế kỷ thứ 11.
Goodman, người có liên kết với U và T, trung tâm nghiên cứu gia đình Phật giáo Robert H. N là chuyên gia Dunhuang duy nhất ở Canada nghiên cứu về các bản kinh đặc biệt. Được sự trợ giúp kinh phí từ hội đồng xã hội nhân văn Canada, với một đội nhỏ các trợ lý nghiên cứu sinh, bà làm việc trên các bản kinh Phật Trung Hoa từ thế kỷ thứ 10, xác định, đánh giá niên đại, dịch và nghiên cứu chúng khi bà chuẩn bị sách với tựa đề thích hợp Phật giáo Từ Bên Lề.
Sự chú tâm của Goodman không chỉ là trên các bản kinh chính thức hay hợp thức được khôi phục từ Dunhuang mà trên “các bản thảo lộn xộn “và đặc biệt là các nghi thức, đã tìm đường đến Luân Đôn, Pari và Bắc Kinh. Bà đang nhìn vào các quy tắc làm việc hay thực hành, bao gồm cả sách phụng sự, các quyển sổ tay cá nhân, các tờ giấy cầu nguyện cho một bức tranh rõ ràng hơn về việc nghiên cứu và tu tập Phật giáo thật sự là như thế nào tại nơi xa xôi này.
Theo dấu hiệu đọc đặc biệt và các quy ước, bà đã khám phá các bản thảo cùng trên một văn bản trên những tài liệu được tái sử dụng về nô lệ, các sắc lệnh ly hôn và những giấy tờ chế liệu khác (giấy là một mặt hàng hiếm). Bà nhìn dưới những sự chỉnh sửa bao gồm các lỗi như là các kiểu cổ xưa bị xóa đi.
“Tôi thích sự lộn xộn của các bản kinh và cố gắng tìm hiểu ý nghĩa trong các sự lộn xộn này.” Bà nói.
Những bản văn quyến rũ này cho ra bằng chứng về văn hóa chồng chéo giao thoa của các nền văn hóa và tôn giáo xuất hiện trong giai đoạn này ở khu vực đó.
“Có một bộ sưu tập đồ sộ song ngữ, thậm chí đa ngữ.” Goodman nói. “Để đọc các loại sách này, bạn cần biết tiếng Hoa và Tây Tạng cũng như tiếng Khotanese và Uyghur: Người viết hay người sao chép sẽ bắt đầu bằng cách viết xuống một bản cầu nguyện bằng tiếng Khotanese, nhưng khi bạn lật trang, bạn thấy một bản cầu nguyện tiếng Tây Tạng theo sau là là một văn bản bằng tiếng Hoa. Ngoài ra còn có các bản phát thảo, sơ đồ nằm rải rác khắp các bản kinh. Những bản kinh này chỉ ra rằng có sự tương tác đặc biệt chủ yếu là giữa những người Trung Hoa và Tây Tạng địa phương, vào thế kỷ thứ 10, và các cộng đồng Phật giáo này cùng tham gia vào các cuộc trò chuyện này.”
Thật sự, có 12 nhóm ngôn ngữ khác nhau, bao gồm cả tiếng Do Thái hiện diện tại di khảo, làm cho các đội nghiên cứu đa ngôn ngữ quan trọng để đọc cả các nguồn và tài liệu phong phú về học bổng bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, Trung Hoa và Nhật Bản được sản xuất trong những năm gần đây.
Một trong những trợ lý nghiên cứu của Goodman là một sinh viên tiến sĩ tên Annie Heckman, một chuyên gia về tiếng Pháp và Tây Tạng có một phòng thu hoạt động và giảng dạy thực hành nghệ thuật tại trường đại học DePaul ở Chicago trước khi quyết định trở lại học lên cao để theo đuổi các nghiên cứu Phật giáo. Cộng đồng các học giả Phật giáo U và T và cơ hội làm việc với Goodman về kế hoạch này là một động lực chính cho Heckman quyết định chuyển đến Toronto. Thêm vào việc xem xét lại các tài liệu về ngôn ngữ tiếng Pháp đương đại về mandala được vẽ tại Dunhuang, cô đang thiết lập nội dung và lịch sử các thư mục bằng tiếng Tây Tạng xuất hiện trong những tập kinh cầu nguyện.
“Công việc này giúp chúng ta hiểu được tác động của một số bản kinh qua thời gian, cho phép chúng ta hiểu tầm quan trọng của các bản kinh Tây tạng sau này và có lẽ cho phép chúng ta hiểu sâu hơn về việc làm thế nào và vì sao chúng được sử dụng trong các bản kinh cầu nguyện ở Dunhuang.” Heckman cho biết.
Các bản kinh cầu nguyện mà nhóm đang nghiên cứu cũng đưa ra bằng chứng về “sự lai kết” các truyền thống địa phương tạo nên sự khác nhau từ việc tu tập Phật giáo ở các tu viện thượng lưu địa phương. Goodman giải thích, “Các tài liệu nghi thức tiếng Tây Tạng và Trung Hoa khá giống với những nghi thức mà họ đang sử dụng: Nếu bạn theo dõi các câu chuyện truyền thống Phật giáo, bạn sẽ không nghĩ rằng Phật giao Trung Hoa có từ thế kỷ thứ 980 trước công nguyên cũng hành xử y như là Phật giáo Tây Tạng tại thời điểm đó, nhưng rõ ràng là tại Dunhguang. Họ đang trao dổi ý tưởng và tài liệu và các văn bản tiếng Hoa như là những dấu bẫy quỷ với các kỹ thuật hình tượng của Phật giáo Tây Tạng, sử dụng kỹ thuật nghi lễ theo ý của họ.”
Cho đến thời điểm này, đội của cô đã dịch một chục bộ kinh xuất hiện trên các bản thảo phức hợp và các bản thảo di chuyển; một người có thể thật sự thấy từng người sao chép cá nhân đang di chuyển các nghi thức xung quanh và sau đó để chúng tại những nơi thờ phụng.
Heckman mô tả quá trình làm việc trên dự án của Goodman như là “khám phá bí ẩn qua thời gian, kết hợp khả năng của nhiều ngôn ngữ và mang hết các mảng ghép lại với nhau như là một câu đố càng ngày càng phát triển.”
Giống như là chính nguồn gốc từ các hang động, khả năng của Heckman giải mã những bí ẩn của các bản kinh khám phá ra một phần nhờ tinh thần từ thiện có ảnh hưởng đến Phật giáo. Công việc của cô ấy được hỗ trợ bởi học bổng Phool Maya Chen từ viện nghiên cứu Phật giáo “Khi tôi lần đầu tiên nhận tin rằng tôi được trao học bổng, tôi cảm thấy được chào đón đến với cộng đồng các học giả đầy cam kết và rằng nhiều năm nghiên cứu của tôi được ghi nhận thông qua rất nhiều nhà tài trợ hảo tâm.” Heckman cho biết.
“Không chỉ học bổng lấy đi áp lực mà tôi đương đầu vì là một sinh viên mà nó cho phép tôi cống hiến nhiều giờ một ngày để đọc tiếng Tây Tạng, điều vô cùng hữu ích cho sự tiến triển của dự án và để thực hiện những câu hỏi đầy thử thách cần nhiều năng lượng cao hơn.”
Ngọc Hằng dịch
Theo Utoronto.ca