Nếu có người trì danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ-tát này đặng như vậy. Nếu có người bị nước xiết cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn.

Xem thêm:

Bồ Tát Quán Thế Âm Và Phẩm Phổ Môn - Do Nhân Duyên Gì Mà Tên Là Quán Thế Âm?

Ðoạn văn kinh này nói về Bồ Tát Quán Thế Âm cứu độ chúng sanh thoát khỏi nạn lửa và nạn nước, hai nạn đầu trong bảy nạn. Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm này. "Nếu có," là bây giờ chưa có, tương lai có thể có. Giả sử có một người ở tình huống ấy mà trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. "Trì" là nắm chắc, nghĩa là không quên, cũng tức là tâm tâm niệm niệm đều chấp trì câu: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Thì dầu vào trong đám lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng. Song, đây ý là nói người ấy bình thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, mà không phải là nói đợi đến khi bị vây hãm trong đám lửa lớn mới niệm danh hiệu Ngài, không phải là bảo bây giờ mới đốt hương, bây giờ mới niệm Phật, cũng không phải là nói hôm nay có tai nạn, hôm nay mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có câu là: "Bình thường chẳng đốt hương, gặp việc ôm chân Phật." Lúc rảnh, một cây hương cũng không đốt, gặp việc gấp mới chạy ôm chân Phật cầu xin cứu nạn cho.

Lúc ấy dù cho quý vị ôm bắp vế của Phật, nhưng Phật cũng không có để mắt tới đâu. Tại sao thế? Vì lúc bình thường quý vị không chịu tu hành, đến chừng gặp nạn mới cầu cứu với Phật, đó gọi là "bây giờ mới đốt hương, bây giờ mới niệm Phật." Lại còn có một hạng người, lúc bình thường cũng chưa đốt hương chưa niệm Phật, nhưng lúc có nạn gấp, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng cứu giúp họ, khiến họ lìa khổ đượĩc vui. Thế nghĩa là sao? Quý vị biết rằng, mỗi người chúng ta đều có nhân trước quả sau. Ở đời trước, có thể người ấy đã từng dũng mãnh tinh tiến tu hành, gắng sức dụng công niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thậm chí đã từng tạo ra các thứ công đức, đời này dù không có niệm mà nhờ đời trước đã trì niệm, đã từng gieo trồng căn lành, nên ở đời này dù người ấy không niệm mà Quán Thế Âm Bồ Tát vẫn đến cứu giúp cho. Ấy là nhờ có nhân xa mà được. Về nhân, có nhân xa mà cũng có nhân gần. Nhân xa là nhân gieo trồng từ đời trước, nhân gần là nhân gieo trồng ở đời này.

Có người nói: "Ðời trước có thể tôi đã gieo nhân rồi, bây giờ không cần phải niệm nữa. Tương lai tôi có mắc nạn, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng sẽ đến cứu tôi." Ðiều đó không lấy gì chắc lắm. Quý vị yêu cầu tôi bảo đảm, tôi cũng không dám! Nếu như quý vị ngay từ bây giờ bắt đầu thành tâm thành ý niệm đi, thì tôi có thể bảo đảm với quý vị, chắc chắn có thể được cảm ứng, tương lai nếu quý vị có tai nạn chi, Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ đến cứu quý vị. Vì bởi quý vị không phải là "bây giờ đốt hương, bây giờ cảm ứng" thì tuyệt đối sẽ có cảm ứng.

Trước kia có một người nhất tâm mong muốn đi Phổ Ðà Sơn ở Nam Hải để triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng mà trong thiên hạ lại có lắm chuyện trớ trêu! Ngày ông ta lên thuyền để đi Phổ Ðà Sơn triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm thì nhà kế bên phát hỏa, bốc cháy. Người nhà ông ta chạy đến báo tin: "Không xong rồi! Anh phải về mau! Ðừng đi Phổ Ðà Sơn nữa. Nhà kế bên chúng ta bị cháy rồi, anh phải về lo thu xếp mới được."

Người ấy nói: "Tôi vì muốn triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm nên đã trường chay ba năm rồi, bây giờ đã lên thuyền sắp đi. Nhà nếu phải cháy, thì dầu tôi có rời thuyền thì nhà cũng vẫn cháy. Nếu không đáng cháy, nhờ sức bảo hộ của Bồ-tát, dầu tôi không xuống thuyền nhà cũng không cháy được. Với thành tâm này, tôi đâu có thể vì nhà cháy mà không đi lễ Bồ-tát Quán Thế Âm!"

Ðối với ông ta lúc đó, việc nhà cháy cũng mặc kệ, chỉ quyết định nhất tâm đi lễ Bồ Tát Quán Thế Âm mà thôi. Sau khi ông ta đi triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm ở Phổ Ðà Sơn trở về, nhìn thấy làng xóm hai bên đều trống không vì bị lửa ngốn, chỉ còn độc ngôi nhà mình nguyên vẹn. Vì thế có người hỏi: "Tại sao mấy nhà xung quanh bị cháy hết mà nhà anh không bị cháy?" Anh ta đáp: "Nhờ tôi thành tâm đi lễ Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi đi, thứ gì tôi cũng buông xả hết, cái gì cháy cứ cháy, tôi cho cháy tuốt, đều không màng đến. Ðó là nhờ Bồ Tát Quán Thế Âm bảo hộ cho đấy! Nhờ oai lực của Ngài cứu giúp nên nhà của tôi mới được nguyên vẹn như thế!"

Ðó là bằng chứng: "Giả sử vào trong đám lửa lớn, lửa không thể cháy được."

Do nhờ sức oai thần của Bồ-tát này. Tại sao lửa không thể cháy được? Vì Bồ Tát Quán Thế Âm có oai thần lực lớn nên lửa không thể cháy được.

Nếu bị nước xiết cuốn trôi. Nếu bình thường quý vị niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc là vô ý - chớ không phải muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm mà nhảy xuống biển xem có linh nghiệm chẳng bị chìm hay không? Nếu quý vị có ý muốn thử, không phải thật lòng tin thì tuyệt đối không linh nghiệm đâu. Quý vị nhảy xuống biển chắc chắn sẽ chìm ngay. Tại sao? Tại quý vị có tâm muốn thử Bồ-tát. Bồ Tát Quán Thế Âm đâu phải học trò, quý vị cũng không phải là thầy giáo, tại sao quý vị lại muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm? Tại vì quý vị không tin Bồ Tát Quán Thế Âm có những thần thông như thế nên mới thử nghiệm xem. Sự thử nghiệm đó không sao, nhưng lại là đem sinh mạng của mình làm vật hy sinh đấy! Không nên đem sinh mạng làm trò cười, để đánh cuộc như vậy!

Xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn. Quý vị xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì bất ngờ gặp được chỗ cạn. Ở trong biển lớn thì làm sao đến được bờ kia? Ðó là nhờ oai lực của Bồ Tát Quán Thế Âm mới có sự cảm ứng như thế. Bất cứ là người nào, nếu muốn giải trừ các khổ não của bảy nạn, thì trước phải thường thường cung kính xưng niệm danh hiệu Ngài.

Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu... mà vào biển lớn. Giả sử gió bão thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời các người đó đều thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

Ðoạn văn này là nói về nạn quỷ La-sát, nạn thứ ba trong bảy nạn, cũng có thể gọi là nạn gió bão. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báuẨ

Con người trong thế gian tham muốn những thứ này vì cho đó là quý báu. Kỳ thật nó là vật ở ngoài thân. Quý vị không rõ vật báu của Tự-tánh mình mà lại đi tham đắm của báu bên ngoài để được những thứ không có tác dụng gì cả, không quan hệ gì với Tự-tánh của mình. Nhưng đa số người lại thích tìm vàng. Quốc gia nào cũng đều thích vàng. Vì mọi người đều cho nó là một thứ báu vật hy hữu nên ngày đêm nghĩ cách kiếm tìm, thậm chí các quốc gia giao chiến với nhau cũng là vì thứ vàng này. Tại sao người ta lại quý vàng như thế? Vì nó rất ít, vì ít cho nên trở thành quý. Nếu như vàng nhiều như đất thì người ta cũng không coi nó có giá trị là bao.

Ấy là: "Vật do ít thành ra quý!"

Bởi vì ít cho nên ai cũng thích, thậm chí nằm mơ cũng thấy vàng, có người đến Phi châu để đào vàng, có người đến Mỹ châu để đào vàng. Trước đây nghe nói ở Cựu Kim Sơn có ráát nhiều vàng, cho nên có nhiều người đổ dồn đến nước Mỹ, nhất là người Trung Hoa đến Mỹ cốt để đào vàng. Ðào vàng ở nước Mỹ xong lại chạy đến nước Úc. Nước Mỹ có Cựu Kim Sơn, nước Úc có Tân Kim Sơn. Những người chuyên môn đãi vàng, vì muốn đến nước Mỹ để tìm vàng mà bị chôn thân trong biển không ít. Tôi nghĩ rằng số người chết rất nhiều, vì trước đây sự giao thông không tiện lợi như bây giờ, tin tức loan truyền cũng không được thông suốt, cho nên số người chết cũng không biết là bao nhiêu. Những người ấy muốn đi tìm vàng trên đường thì gặp gió bão, đang đi trên biển lại bị gió bão thổi mạnh, người và thuyền đều chìm cả. Vàng là vật quý báu bậc nhất, bạc được kể bậc nhì.

Ngoài ra còn có lưu ly, mà người Trung Hoa gọi là Thanh sắc bảo, bửu bối màu xanh. Xa cừ là một loại đá quý, ở trên mặt có lộ ra những đường vân giống như vết xe lăn trên bùn, cứ cách một đường trắng lại có một đường sáng ánh giống như một đường rãnh, cho nên gọi là Xa cừ. Tuy nhìn thấy hình như có đường rãnh mà dùng tay sờ lên mặt đá lại bằng phẳng trơn láng, không có dấu vết. Ðá này là một trong bảy loạĩĩi báu vật. Mã não là một thứ ngọc đá. Thứ đá này giống như óc ngựa, trên màu đá sắc trắng lộ ra từng đường từng đường vân li ti màu đỏ giống như gân máu, cho nên gọi là Mã não. San hô là loại cây san hô dưới biển, có cây cao tới một thước, tôi đã thấy có cây cao hơn ba tấc. San hô là một loại hóa thạch, do loài trùng ở dưới nước biến thành thực vật có hình dạng giống như cây. Chất liệu của nó giống như ngọc đá cho nên thật là quý giá.

Ở Trung Quốc có một người nhà giàu tên là Thạch Sùng, ông ta rất thích so sánh sự giàu sang với người khác. Một hôm ông ta đến dự yến tiệc ở nhà một vị Hoàng thân bà con với Vua. Lúc ấy Vua ban cho vị Hoàng thân một cây san hô cao độ hơn sáu tấc. Vì là của Vua ban nên tự nhiên phải là quý trọng đặc biệt. Vị Hoàng thân mời Thạch Sùng đến nhà mình, sau bữa cơm, mới đưa cây san hô ra khoe. Nào ngờ Thạch Sùng lấy tay bẻ vụn cây ấy, khiến cho vị Hoàng thân lo sợ quá, mới nói: "Cây này là của Hoàng thượng ban cho, sao ông lại bẻ gẫy đến nỗi không còn giá trị gì nữa thế!"

Thạch Sùng nói: "Ngài đừng lo! Tôi sẽ đổi cho ngài một cây san hô khác, ngày mai ngài đến nhà tôi tùy ý lựa chọn, thích cây nào tôi sẽ biếu ngài cây đó."

Hôm sau vị Hoàng thân đến nhà Thạch Sùng để xem thử, thì thấy lồ lộ ở phòng khách một dãy san hô cao một thước! Hoàng thân nhìn thấy nghĩ bụng: "A! Mình dù là Hoàng thân, nhưng giàu chưa bằng một góc anh Thạch Sùng này!" Nghĩ rồi bèn lựa một cây san hô vừa ý đem về. Về sau, Thạch Sùng rốt cuộc nhân vì quá giàu mà phải chết. Ấy gọi là "chết vì của." Người ta tại sao mà chết? Chính là vì chữ tài ấy! "Chim chết vì ăn, người chết vì của." Chim tại sao mà chết? Chính vì chữ thực mà ra. Chúng sanh điên đảo như vậy đấy!

Hổ phách là một loại khoáng chất màu vàng thẫm, trong suốt, do nhựa cây tùng biến thành. Trân châu (ngọc trai) là vật thể hình tròn sản xuất từ con trai, lung linh trong suốt, sáng lấp lánh thật đáng yêu.

Mà vào biển lớn. Người ta vì muốn tìm của báu mà vào biển cả để kiếm tìm, vì ở đó có rất nhiều của báu. Giả sử gió bão, gió bão là hắc phong, vì gió màu đen. Thứ gió màu đen này ai cũng có. Tại sao gọi là gió màu đen? Vì khi nổi nó lên gương mặt biến thành xạm đen. Người ta vì tức giận nên mới có gió đen, nếu không tức giận thì gió đen không nổi lên.

Biển cả này là gì? Là tánh hải - biển Tự tánh của chúng ta! Gió đen ví như vô minh của chúng sanh. Thứ vô minh này còn gọi là phiền não. Nếu quý vị sanh phiền não, là có gió đen đấy; nếu không còn phiền não thì biển cả tự tánh của quý vị sẽ gió lặng sóng êm. Thế nào mới có thể tìm được của báu? Phải vào ngay trong tự tánh của quý vị đào bới của báu của chính mình. Ðương khi quý vị đào bới của báu của chính mình ấy thì có thể gặp phải ma chướng. Tại sao có ma chướng? Do vì đức hạnh của mình không đủ, đức tánh không đủ, đạo đức không đủ. Vì không có gây tạo công đức nên đức hạnh chưa tròn, vì đức hạnh không tròn đủ nên mới có gió đen, mới bị ma chướng. Nếu đức quý vị lớn thì gió đen sẽ hóa ngay.

Hóa thành cái gì? Hóa thành mây lành, điềm lành. Ngạn ngữ có câu: Ðạo cao rồng cọp nể, đức trọng quỷ thần theo là gì? - Ðạo cao thần cọp nể nghĩa là người có đạo hạnh cao thì rồng gặp cũng phải khoanh mình lại không nhúc nhích. Rồng xưa nay là một loại rất lợi hại, có thể làm kinh thiên động địa, dời non lấp biển như không, thế lực rất là to lớn. Nhưng nếu quý vị có đạo lực thì tuy rồng có thần thông to lớn cũng không dám thị uy trước mặt quý vị, mà ngoan ngoãn khoanh tròn lại. Còn loài cọp dù hung hãn cách mấy, nếu quý vị không có tâm sân hận thì nó lại biến thành một loại chó mèo thuần dưỡng, khi gặp quý vị sẽ lắc đầu vẫy đuôi mừng rỡ mà không dám ăn thịt. Nhưng quý vị phải có đạo hạnh mới được cảnh giới như vậy, nếu không thì rồng không khoanh, cọp không quỳ đâu!

Ðức trọng quỷ thần theo: Một khi đức hạnh quý vị đã đủ, đã tròn đầy, thì quỷ thần gặp quý vị sẽ cung kính tôn trọng, cúi đầu đảnh lễ. Cho nên điều quan trọng nhất là đôn phẩm lập đức.

Thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió bão trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm.

Ðạo đức là điều mọi người đều nên phải chú trọng. Con người sở dĩ khác với cầm thú là do có đạo đức. Nếu không trọng đạo đức, không biết đạo đức, thì có khác chi cầm thú? Hơn nữa, đạo đức cần phải hành, phải có biểu hiện thực tiển; nếu không thì căn bản còn gì để nói.

Tôi có một người bạn rất thân ở Ðông Bắc (Mãn Châu). Tại sao anh ấy lại trở thành bạn thân? Vì anh cùng tôi là bạn đồng tu, đồng hạnh. Lúc tôi còn tại gia từng để tang thủ hiếu bên cạnh mộ mẹ, anh ta cũng có thủ hiếu bên mộ phần cha mẹ anh. Ðiểm khác biệt là lúc còn tại gia anh ta là thổ phỉ. Trước khi thủ hiếu để tang mẹ anh từng là đạo tặc, đánh cướp khắp nơi, tống tiền người khác. Trong một chuyến "ăn hàng" thất bại, anh bị người đánh trọng thương. Sau đó, về dưỡng thương hơn nửa năm trời mà vẫn chưa lành, lúc đó anh mới tỉnh ngộ, nghĩ rằng:

-"Lâu nay làm nhiều việc sai quấy nên vết thương mới lâu lành như thế này."

Anh bèn hạ quyết tâm phát nguyện: "Nếu vết thương tôi được lành thì từ nay về sau tôi không làm thổ phỉ nữa."

Anh lại còn nguyện đích thân đến ở bên phần mộ cha mẹ để thủ hiếu. Sau khi phát nguyện, quả nhiên không đầy mấy ngày vết thương tự nhiên kéo da non. Dĩ nhiên anh vẫn tiếp tục thủ hiếu bên mộ phần. Trong thời gian anh để tang có rất nhiều hiện tượng kỳ diệu phát sanh. Ðơn cử một việc "Cắt thịt tế trời cầu trời tạnh" cho mọi người.

Trong thời gian anh thủ hiếu, liên tục mấy tháng trời mưa tầm tã, không ngày nào tạnh. Anh ngẫm nghĩ: "Trời mưa như thế này thì ngũ cốc của mọi người sẽ ngập và chết hết!"

Nghĩ thế, anh quyết tâm cầu tạnh mưa giúp cho mọi người, mới ngửa mặt lên trời phát thệ: "Nếu nội trong ba ngày trời tạnh thì tôi sẽ cắt thịt trên người để cúng Phật, cúng trời."

Anh vừa phát nguyện xong thì, kỳ lạ thay, không đầy ba ngày trời tạnh mưa hẳn. Anh giữ lời nguyện bằng cách đứng ở trước bàn Phật, cầm dao cắt một miếng thịt độ hai lượng trên cánh tay mình. Sau khi cắt thịt xong, vì đau nhức quá anh ngất đi. Khi vừa tỉnh lại, chợt có quan huyện đi tới, nhìn thấy máu rơi đầy đất, tự nghĩ:

-"Người này cắt thịt mình để làm gì kìa? Chắc đang nổi cơn điên." Ông ta bước tới hỏi mới biết anh ta cắt thịt để cúng Phật cúng trời vì cầu tạnh mưa cho mọi người.

Quan huyện nghe xong hết lời khen ngợi: "Anh thật là người quá tốt!" Và đối với anh ta có một ấn tượng thật tốt. Về sau không biết từ đâu bay đến một con chim có tiếng kêu rất đặc biệt.

Nó kêu: "Làm nhiều phước, làm nhiều phước, tốt lắm." Suốt ngày nó chỉ kêu như thế, ý bảo hãy làm nhiều việc lành đi. Làm việc thiện càng nhiều càng tốt.

Cho nên làm việc gì tôi cũng không sợ khổ, cả ngày làm việc không rảnh để xem kinh mà tối lại còn giảng kinh cho quý vị nghe nữa sao? Ðó là vì muốn bố thí thêm một ít, đem pháp ra bố thí. Tại Mỹ, có thể nói là "pháp" quá ít! Nhân đó tôi phát nguyện bố thí Phật-pháp cho quý vị, dù cực khổ thân tôi cũng không dừng nghỉ hay bỏ cuộc.

Nếu lại có người sắp sửa bị hại, xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng đoạn mà đặng thoát khỏi.

Ðoạn văn kinh này là nói về nạn dao gậy. Nếu có người sắp sửa bị hại, mà có thể xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì dao gậy của người cầm, người cầm là nói về người muốn giết hại, cầm dao bén và gậy gộc trong tay, sắp sửa muốn ra tay. Liền gãy từng đoạn. Ðúng lúc quý vị niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên cổ của quý vị cứng hơn dao thép của người kia. Xưa nay dao bao giờ cũng cứng hơn cổ, nhưng bây giờ lúc dao chém đến cổ, tự nhiên bị gãy vụn. Nếu không tin, quý vị cứ thử xem cổ mình có cứng bằng dao không? Con dao có bị gãy từng khúc không? Ðó là nhờ sức đại oai thần của Bồ Tát Quán Thế Âm nên mới khiến cho cổ cứng như đá tảng đến nỗi dao của người ấy tự nhiên bị gãy vụn. Mà đặng thoát khỏi. Nhờ đó mà được giải thoát nạn dao gậy. Vì lẽ gì được thoát khỏi? Do vì người ấy phát tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Có người hoài nghi: "Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm mà được linh cảm như thế sao?" Chẳng những được như thế mà còn linh cảm hơn thế nữa! Chỉ cần quý vị thành tâm tin tưởng, thành tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được sự cảm ứng theo ý mong cầu.

Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ mà nhìn người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.

Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên. Thế giới chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. "Một" đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu. Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới. Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới.

Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. Quỷ Dạ-xoa bao gồm: Phi hành dạ-xoa, Ðịa hành dạ-xoa và Không hành dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa chạy rất nhanh, hỏa tiễn bây giờ cũng chạy không kịp tốc độ của nó, vì thế nó còn có tên là Tốc tật quỷ hay Tiệp tật quỷ. La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như quý vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ý gây rắc rối cho quý vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quý vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: "Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm gì! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa!Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe.

Còn học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!" Ai có ý nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: "A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Ði tu để làm gì?" Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: "Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn." Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói: "Muốn đến hại người."

Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệm "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát" thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ để nhìn. Một khi quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được Ngài bảo hộ cho.

Giả sử lại có người, là giả sử còn có một người. Hoặc có tội hoặc không tội. Không luận là có tội hay không. Bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân mình. Người có tội tất nhiên bị chính phủ bắt giữ, bị còng tay, chân mang gông. Người "có tội" là chỉ người phạm tội; còn người "không tội" là chỉ người bị oan uổng, bị vu cáo, bản thân không phạm phải tội lỗi mà bị chính phủ bắt giữ cầm tù trong ngục, tay mang còng, chân mang gông. Gông cùm xiềng xích là những hình cụ xử phạt mà tội nhân phải mang, nó dùng để trói buộc người. Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu ngay lúc đó người ấy có thể xưng niệm "Nam-mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát." Thì thảy đều đứt lìa. Những thứ hình cụ gông cùm xiềng xích này bèn tự nhiên bị gãy đứt. Liền được giải thoát. Tức thời được giải thoát ngay vì còng tự động đứt, gông tự nhiên mở.

Nói tóm lại, bất cứ hình cụ nào đang ở trên thân đều tự nhiên rơi xuống. Việc này tôi đã chứng kiến rất nhiều. Có lần đó, tôi ở chùa Nam Hoa, vào thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, tôi gặp một vị Sư bị quân Nhật bắt giam vào ngục, tay chân đều bị xiềng xích cả. Vị Sư ấy ở trong ngục suốt ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm miên mật không dứt. Vào một buổi chiều, bỗng nhiên những gông cùm trên thân Sư đều bị gãy đứt, cửa ngục cũng tự động mở ra nên trốn thoát được.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi nước tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo hàng quý báu đi qua nơi đường hiểm trở. Trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ hãi, các ông nên nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát đó hay ban cho chúng sanh niềm không lo sợ. Các ông nếu xưng danh hiệu Ngài thì sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này."

Các người buôn nghe rồi, đều cất tiếng niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," vì xưng niệm danh hiệu Bồ-tát mà được giải thoát.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi nước tam thiên đại thiên. Giả sử bất cứ chỗ nào trong cõi nước tam thiên đại thiên này đều có oán tặc. "Oán tặc" là ngày xưa họ có oan trái với quý vị nên đời này làm giặc để cướp của cải của quý vị. Có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo hàng hóa đi qua nơi hiểm trở. Có một người thương chủ dẫn theo rất nhiều người lái buôn, lại có mang theo rất nhiều vật quý giá trị phi thường, đi qua một nơi có nhiều giặc cướp thổ phỉ. Trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ hãi, các ông nên nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát đó hay ban cho chúng sanh niềm không lo sợ.

Các ông nếu xưng danh hiệu Ngài thì sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này." Nhưng trong số những người lái buôn đó có một người đề nghị với mọi người như thế này: "Thưa quý ông, quý anh em, quý bạn! Các vị đừng nên sợ hãi. Mọi người chúng ta nên nhất tâm chuyên niệm 'Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát' đi, vì vị Bồ-tát này hay dùng tinh thần vô úy bảo hộ cho tất cả chúng sanh. Chúng ta nếu nhất tâm niệm danh hiệu Ngài thì tuy hiện tại chúng ta gặp bọn oán tặc, chúng ta tự nhiên sẽ được thoát nạn, sẽ không phải bị chúng cướp giựt hay giết hại." Các người buôn nghe rồi, đều cất tiếng niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Vì xưng niệm danh hiệu Bồ-tát mà được giải thoát. Những người lái buôn kia nghe nói rồi đều đồng loạt cất tiếng niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Nhờ niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm nên được thoát khỏi nạn oán tặc, không bị thổ phỉ cướp giựt. Nhơn vì có sự linh cảm không thể nghĩ bàn ấy nên mỗi người đều phải thành tâm thật ý xưng niệm danh hiệu Ngài, chớ có hoài nghi.

Này Vô Tận Ý! Ðại Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần cao lớn như thế.

Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni sau khi giảng giải lý lẽ như trên xong, lại gọi tiếp: "Này Vô Tận Ý! Sức oai thần của Bồ Tát Quán Thế Âm thật là rộng lớn cao tột!" Nói mãi không rồi, giảng hoài không hết.

HT Tuyên Hóa



Có phản hồi đến “Bồ Tát Quán Thế Âm Và Phẩm Phổ Môn - Nếu Người Trì Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm Có Vượt Thoát Nạn Tai Không?”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com