TƯỞNG NHỚ NGÀI

Long Hương núi Tổ nhiệm mầu thay!

Bà rịa danh truyền công đức dày

Cháu con tưởng nhớ nên lập Tháp

Kính phụng ăn sâu Tăng đức tài

Xả thân vì đạo thương bá tánh

Độ đời khó nhọc công chẳng nài

Treo gương chánh pháp nơi núi Tổ

Trùng tu tạo Tháp nhớ ơn Ngài

09/09 Ất Hợi niên

Cảm niệm của Ni Sư Huệ Giác

Nhắc lại Chùa Giữa hay Chùa Trung có ông Ba Chớ ở đây cũng là người giao liên cách mạng qua lại với Hòa thượng Thầy, rước Hòa thượng đến chùa Giữa tham quan rồi nói sau này giao lại cho Hòa Thượng đề cho con cháu bảo trì thánh tích tu hành.

Có những nhân duyên tốt hợp lại nên Hòa Thượng Tôn Sư giao nhận lãnh chùa Hang Mai! Hang Tổ và Chùa Giữa là do những lý do chính đáng trên.

Hiện nay Chùa Hang Tổ, Chùa Hang Mai, Chùa Giữa trải qua chiến tranh Pháp Mỹ bị tàn phá hư hại 100% chưa hội đủ cơ duyên để con cháu Tổ đình Linh Sơn trùng tu lại các Thánh địa này.

- Dãy núi Bao Quan cao và đẹp, thánh cảnh u nhàn thanh mát, cũng có lắm Hang, Động. Nơi đây xưa có ba vị (được truyền khẩu lại) đã tu đắc đạo, đó là Ngài Chí Thiện, Chí Trung, Chí Nhàn (vì ần tu nên không có lai lịch). Trong thời kỳ chiến tranh Mỹ Ngụy dùng mấy tản đá l81m làm sân bay cho trực thăng đáp xuống. Đây cũng là nơi chịu đựng thảm cảnh chiến tranh. Hiện nay, chư Tăng Ni tổ đình đã trồng trên hai mươi lăm (25) hecta cây rừng để phủ xanh đồi trọc. Tạo vườn cảnh xanh tươi mát mẻ. Ni Sư Huệ Giác cho sửa Phật Điện Hàm Rồng và cử người về ở vừa tu vừa lo việc giữ rừng.

- Với tấm lòng vì Đạo hi sinh, với lòng từ bi cao cả. Với hoài bảo tạo dựng một thánh tích tòng lâm thánh cảnh làm đẹp cho Văn hóa lịch sử nước nhà. Hòa Thượng Tôn Sư không ngại gian lao cực khổ. Lúc đó phải chịu trăm bề khổ nhục mà vẫn kiên nhẫn, vượt khó tu hành để đào tạo Tăng Ni chỉ mong môn đệ tử tôn sau này trở nên người hữu ích cho Đạo Đời.

- Với đức đó, hạnh lành khéo léo. Đức Tôn Sư đã dìu dắt hơn năm trăm môn nhân an trú tại Tổ đình, trên dưới thuận hòa, trong ngoài an lạc với niềm vui kiên cố. Thật là:

                             “ Bồng Lai thanh cảnh đẹp xinh

                             “ Trẻ già, trai gái tưởng tin tu hành

          Với những lời khuyến tu:

                             “ Làm người Phật tử Tây phương

                             “ Trên non dưới thế tuyết sương bên lòng

                             “ Dẫu cho cực khổ mặn nồng

                             “ Chí tâm niệm Phật thoát vòng tử sanh

                             “ Khuyên ai thiện trí khách lành

                             “ Hiền nhân quân từ tu hành đừng quên.

          Nhưng sự yên tỉnh chẳng được bao lâu, năm 1062 – 1965 Tổ Đình Linh Sơn là nơi đóng chốt của đường dây liên khu 5. Biệt Động Thành Đoàn, cũng là đường đi lại của Giải phóng quân, phong trào chống Mỹ cứu nước gia tăng mãnh liệt. Tổ Đình Thánh địa lúc bấy giờ trở thành hậu cần của lực lượng Giải phóng. Mặt Trận Liên Minh đại diện có Hòa thượng Thích Hưng Từ (Khánh Hòa). Hòa thượng Thích Pháp Ngộ, cô ba Xuyến Bến Tre. Cô năm Khéo Thành Đoàn, chú năm Bê Bộ đội…thường ghé sinh hoạt tại Tổ Đình Đức  tôn sư chỉ đạo Ni sư Huệ Giác lo việc tiếp tế lương thực, thuốc men, cho người cứu thương, nuôi giấu cán bộ…v…v…những công tác này góp phần không nhỏ trong cuộc kháng chiến đánh Mỹ giành độc lập cho dân tộc.

          Từ đó bị địch theo dõi, hàng ngày, mỗi chiều đều bị đạn opic từ các đồn ở Bà Rịa Vũng Tàu bắn vào Tổ đình, rồi đến hàng loại bom rocket, rồi phản lực cơ F5 thả bom đĩa tàn phá khốc liệt không kể xiết. Bấy giờ Tổ đình bị chiến tranh tàn phá hư hoại 100%, ba mươi Tăng Ni và em cô nhi bị thương tích nặng, mười sáu Tăng Ni và em cô nhi bị thiệt mạng. quí vị bị mang thương tích, nay vẫn còn sống tu tại Chùa, quý vị bị thiệt mạng chôn cất tại Chùa Tất-Thiên Tiền Môn cầu Rạch Ván (An dưỡng địa, cầu Rạch Ván)

          Thế là Tổ Đình Linh Sơn liên tiếp bị nạn chiến tranh lần thứ hai, thời kỳ chống Mỹ.

          Vì bị tổn hại, con cháu lớp chết, lớp bị thương nặng, Tôn sư quá đau lòng, đành phải cho Tăng Ni và cô nhi xuống núi tản cư về nhiều nơi.

          Đầu tiên, Ngài cho tản cư về Biên Hòa trụ tại Chùa Phổ Hiền, xã Tân Thành, rồi đến Tịnh xá Thắng Liên Hoa (nhà Ông Tư Hơn, Ông Năm Đâu), xã Hiệp Hòa. Một số tản cư về Nhứt Sơn Bổn Tự, Vĩnh Phú Lái Thiêu, Tịnh xá Thiện Chơn, Bà Điểm, Chùa Phước Thiện An,  xã Tân Thới Hiệp (Hốc Môn).

          Thời điểm nầy, chiến sự rất là hổn loạn, lại thêm luôn luôn bị Chính quyền (cũ) theo dõi, nuôi nấng cô nhi rất là vất vả, cực khổ. Việc cưu mang các em cô nhi là trọng trách Tôn sư giao phó cho Tăng Ni lo lắng.

          Vì hoàn cảnh, thời thế, ví sự an ổn cho cô nhi, người già yếu, Tôn sư ủy nhiệm cho Ni sư Huệ Giác chọn đất xây dựng  Quan Âm Tu Viện để có nơi trang nghiêm cho chư Tăng Ni tu hành và có chỗ an trú cho cô nhi. Ngày 08/04/1966 Quan Âm Tu Viện  được thành lập tại xã Bửu Hòa, Biên Hòa, Đồng Nai cho đến nay.

          Nhân duyên sáng lập Chùa Nhứt Nguyên Bửu Tự (1960): Nhứt Nguyên Bửu Tự do Đức Tôn Sư chủ trương xây dựng, là một ngôi chùa để hoằng dương Chánh pháp, phổ độ quần sanh xương minh Tịnh độ. Giúp Tăng Ni tín đồ Phật tử khắp nơi về Niệm Phật. Mỗi năm có mở khóa “Niệm Phật một trăm ngày” (Bá nhựt trì danh hiệu A Di Đà, cầu sanh Tịnh độ) Mỗi khóa niệm được Chư Tăng Ni à Phật tử các Chùa trên toàn quốc về tham gia rất đông (hàng vạn lượt người) để niệm Phật, vừa thúc liểm thân tâm tu hành lợi ích cho thân tâm, cũng vừa để cầu nguyện cho đất nước sớm được hòa bình, nhân dân an lạc. Ngôi chùa này tọa lạc tại xã Vĩnh Phú, Bình Dương, Đất Chùa do thí chủ Bùi Văn Thu và gia quyến hiến cúng dường, cũng là nơi tạm nương trú cho chư Tăng Ni và các em cô nhi khi bi bom đạn di tản đến.

          Một số Ni chúng và cô nhi được đưa về Chùa Phổ Hiền xã Tân Thành Biên Hòa. Nơi đây Đức Tôn Sư dạy cho con cháu tu hành và nhân dân địa phương cũng như Bửu Long Biên Hòa đồng về quy y với Ngài rất đông. Được gia đình cụ Huỳnh Văn Đảo, Hà Thị Cưng, Hà Thị Lư là gia đình cách mạng ủng hộ Ngài rồi sau cũng xuất gia tu Phật Trụ trì tại chùa Phổ Hiền, hiện nay di tích vẫn còn, con cháu tiếp tục tu hành và làm việc từ thiện.

          Đức Tôn Sư trở Long Sơn Cổ Tự thăm chùa cũ, thăm ân sư (Tân Ba, Tân Uyên). Ngôi Chùa Cổ mà Ngài nhớ ơn, Hòa Thượng Tôn Sư cho tu sửa lại nhiều lần để báo đáp thâm ân đỡ đầu của Hòa Thượng Thượng Trí hạ Châu dòng Thiền Lâm Tế Gia Phổ thứ bốn mươi (40), cũng là quê hương xứ sở của Ni sư Huệ Giác người đệ tử thứ nhất sau này thừa kế đạo nghiệp theo bổn nguyện của Đức Tôn Sư. Vì cảm niệm công đức lớn, nên khi Hòa Thượng chủ trì viên tịch, ban tế tự tan rã rước Đức Tôn Sư về theo di tích của Hòa Thượng giao trọn quyền ngôi Long Sơn Cổ Tự cho Đức Tôn Sư thừa kế để độ bá tánh Tân Ba.

          Hòa Thượng cho trùng tu ngôi cổ tự được tốt đẹp rồi ủy nhiệm cho môn đệ là Hòa thượng Thích Huệ Tâm về Trụ Trì thay Ngài độ cho bá tánh tu hành.

          Khi từ Tổ Đình Linh Sơn, Núi Dinh tản cư về xã Hiệp Hòa, Biên Hòa được hai đệ tử hảo tâm là Ông Tư Hơn và Ông Tư Đâu hiến cúng nhà, đất cho Đức Tôn Sư xây dựng tịnh xá Thắng Liên Hoa cho chư Tăng Ni tu hành và nhà trại cô nhi ở Tịnh Xá Thắng Liên Hoa nằm ven bờ sông Đồng Nai, cũng là một phong cảnh sông nước rất nên thơ. Hòa Thượng Tôn Sư về ở tại nơi này được nhân dân địa phương quý vô cùng, đến quy y tu học và ủng hộ phương tiện nuôi cô nhi trong lúc nguy nan chạy nạn. Ở tại địa phương này, Phật tử cũ khắp nơi về thăm viếng và hộ trì, nên con cháu của Ngài tạm sống bình yên. Đức tôn sư có công đắp Hương lộ Hiệp Hòa xuống bến đò, cho tu sửa cầu bến đò Long Kiểng cho nhân dân qua lại giữa Cù Lao Phố và Tân Mai. Đồng bào ở đây cảm niệm công đức Ngài vô lượng. Năm 1975, Ngài giao lại cho Thượng tọa Thích Giác Thông bảo quản.

          Vì con cháu đông, lại phải nuôi cô nhi trên 300 em, nên năm 1975 Đức Tôn sư về chùa Long Phước Thọ, ấp 5, xã Long Phước, huyện Long Thành cho đệ tử Tăng chúng khẩn hoang khai rẫy trồng lúa, bắp, khoai mì, lúa mạch để có kinh tế tự túc cho Nhà Chùa và trồng cây gây rừng. Năm 1984, Ngài chỉ đạo Ni sư Trưởng Huệ Giác hướng dẫn tập thể chư Tăng Ni hưởng ứng chính sách của Đảng, Nhà Nước, theo các nghị quyết của Bộ và Tỉnh tiếp tục trồng cây gây rừng vào ngày 19/05/1984 nhớ trọng ơn Bác Hồ. Trong phong trào nầy, trồng được trên 80 hecta, tại ba điểm: Long Phước, Phước Thái( Long Thành), Phước Hòa ( huyện Châu Thành, Bà Rịa). Tại đây, Ngài thương đồng bào nghèo ở kinh tế mới Bàu-Cạn và tại địa phương, cho mở phòng thuốc Đông y bố thí thuốc, giúp đở cho đồng bào quá đói nghèo. Đức tôn sư còn khuyến khích đồng bào hăng hái khai hoang lập vườn trồng rừng, ruộng để nâng cao đời sống và cũng để góp phần xây dựng kinh tế nước nhà trong giai đoạn mới. Cũng nơi đây Đức tôn sư đã hướng đòan Đoàn Bác Sĩ, Y tá, Y công của bệnh viện Nguyễn Trãi, thành phố Hồ Chí Minh mượn đất xã Long Phước trồng cây thuốc nam, lúa, bắp, khoai mì, tạo kinh tế cho bệnh viện trong giai đoạn khó khăn này.

          Công đức của Đức tôn sư rất sâu dầy đối với mọi tầng lớp. Thật là nói sao cho hết, kể do cho vừa. Để cảm niệm ân sư với tình đất ấm, Ni Sư Huệ Giác viết dòng thư thương nhớ :

Ai đi qua rừng tràm Long Phước Thọ

Rừng cây dâng hương hoa, ôi thơm tho.

Sao khỏi bâng khuâng nhớ nhung ngậm ngùi

Bóng hình Bà Mẹ-dáng gầy năm xưa

Có những hoàng hôn-đây màu cỏ cháy

Đồng trơ hoang vắng đất khô gầy cằn

Tình thương đất ấm Mẹ về khai hoang

Cây xanh xanh theo luống cày ngay hàng

Ôi! Trái im vàng, tình thâm chan chứa…

……………………

Trụ nơi chùa Long Phước Thọ, Đức tôn sư cùng môn đệ tăng chúng đồng cam cộng khổ, dầm sương dãi nắng để tạo vườn, rừng, trồng rẫy. Vì tuổi già sức yếu, lại lâm bệnh nặng, Ngài ủy nhiệm lại cho đệ tử là Sư cụ Trưởng Lão Thích Thiện Lộc các Ban nông Thiền bảo quản lo việc vườn rừng nơi đây.

Nhắc lại thời điểm núi Dinh bị bom đạn tàn phá, Tôn sư phải dời chư Tăng Ni và cô nhi tản cư xuống núi có vài tu sĩ xin ở lại trong hang ẩn tu để giữ gìn núi thiêng hùng vĩ trong lòng mình, nhưng rồi cũng bị quân Mỹ cho trực thăng hạ cánh nơi đỉnh núi bịt mắt, dẫn các vị nầy xuống Bà Rịa hết. Từ đây núi vắng người tu, chỉ còn đường đi và hoạt động của Cách Mạng mà thôi. Hơn một ngàn tấm tole của Chùa tổ đình, Am, Thất đã ủng hộ cho anh em Cách Mạng lần cuối.

Chiến tranh lúc này ác liệt bùng nổ khắp nơi. Sự ăn ở tu hành của tập thể Chư Tăng Ni và em cô nhi bất ổn phải vân tập về hết tại Quan Âm Tu Viện. Ôi! Thảm cảnh chiến tranh ai mà chẳng khổ?! Ai mà chẳng buồn?!  Ai ai cũng muốn có một ngày nước nhà được hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc như lời Bác Hồ đã nói :       

“Không có gì quí hơn độc lập tự do”.

Thế rồi “Sau cơn mưa trời lại sáng”. Tiếng reo vang khắp nẽo đường Việt Nam, giải phóng đất nước hòa bình ngày 30/04/1975. Hòa trong sự vui mừng đại thắng của toàn dân, chư tôn đức Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng với bao niềm hân hoan xúc cảm…Bao nguyện ước lâu nay đã thành sự thật

 Chùa xưa cảnh cũ núi Dinh

Nước non xinh đẹp hưũ tình biết bao

Từ đây chí nguyện non cao

Trùng tu thắng cảnh cùng nhau mau về

Được lịnh đăng sơn của Đức Tôn Sư,

Con cháu ai cũng náo nức

Am xưa chùa cũ xin về

Góp phần tái thiết bồ đề núi Dinh

Nước reo suối chảy thâm tình

Chung tu niệm Phật niềm tin trọn lành

Nhưng tất cả chỉ có sự điêu tàn, chỉ còn lại đống gạch vụn, cây đá ngỗn ngang, rêu phong bụi mờ, cỏ cây chằng chịt, lối về khó đi. Ôi! Thương làm sao! chùa xưa cảnh cũ nay còn đâu.

Trước cảnh tượng thương tiếc này, Đức Tôn Sư cho sửa mấy cái hang, động, che lại Am, Cốc bằng tranh, tole, thiếc cũ đầy vết đạn, che tạm nắng mưa đễ có chỗ ở, rồi tiếp tục khai đất trồng lại vườn rẫy từ chân núi ra đến cầu Rạch Ván.

Số đất xưa kia chùa đã khai khẩn rồi bị bom đạn phải xuống núi, đến năm 1972 địa phương chính quyền cũ, theo “Người cày có ruộng” đã phân chia ruộng rẫy gần 50 hecta cho nhân dân địa phương. Khi về núi, đại diện chùa trình bày cho chính quyền giải phóng, quý cấp lãnh đạo bấy giờ cấp cho tập thể chùa chỗ đất nào còn trống là được khai khẩn để canh tác. Mười năm xa cách, ruộng rẩy hoang phế, khai lập trở lại cũng vất vả gian nan vô cùng. Vết thương do chiến tranh tàn phá để lại nỗi đau thương cho con người, mất mát cho cảnh vật, tài sản của Tổ đình, Thánh địa Linh Sơn quá nhiều!

Nhưng rồi thảm nạn lớn đã qua chưa lành, núi rừng Linh Sơn lại chịu nạn của con người kéo nhau lên núi chặt cây, phá rừng, đào đá. Thật chỉ ví lợi riêng mà không còn một chút ý thức đến môi trường thiên nhiên, cũng như không biết qúy kính tòng lâm thắng cảnh, văn hóa sử nước nhà gì cả!

Thế là đồi xanh không bị trọc vì chiến tranh, mà bị trọc vì người chặt phá, từ hang Tổ đến cầu Rạch Ván, thảm họa hủy hoại thiên nhiên vô cùng đau xót.

Kể từ năm 1975 đến 1981 Đức Tôn sư chỉ đạo cho thượng tọa Giác Hải hướng dẫn đại chúng tông môn con cháu lập vườn trồng cây tạo kinh tế đời sống cho tập thể, rồi cho tái thiết ngôi chùa Tây-Phương trên nền cũ. Am, Cốc, Hang, Động từ hang Tổ, Hang Mai trở về được tu sửa tạm để môn đệ có nơi an trú tu hành. Thời gian này, vấn đề an ninh cũng rất khó khăn về mọi mặt. Vì mới giải phóng đất nước, còn phức tạp ở những vùng sâu, vùng xa, ở núi trong hang, sợ ngụy quân, ngụy quyền trốn tránh, nên cũng là một sự chướng ngại cho việc trùng tu quần thể Tổ Đình Linh Sơn.

Mấy năm mới tạm an bày thì lai có lịnh của Bộ Quốc Phòng cần trưng dụng đất để thiết lập Trường Thiết Giáp II tại xã Hội Bài, Bà Rịa-Vũng Tàu. Bãi bắn rộng lớn nên đất chùa cũng nằm trong vùng khoanh. Một biến cố bất ngờ! Tập thể Tăng Ni từ trên núi xuống đến chân núi phải di dời nữa! Lúc ấy Đức Tôn Sư cho Thượng Tọa Giác Hải đại diện kí bàn giao 46 hecta vườn rừng ruộng, rẫy dưới chân núi để cho Bộ Quốc Phòng trưng dụng làm bãi bắn mà không nhận bất cứ khoản tiền bồi hoàn nào. Chỉ yêu cầu một điều kiện: Bao giờ trường bắn không còn sử dụng làm bãi bắn nữa thì xin hoàn trả đất lại cho tập thể Tổ đình để canh tác sản xuất, làm kinh tế tự túc cho nhà chùa.

Thế là cơ sở Tổ Đình, nhà ở được dời ra xã Hội Bài, huyện Châu Thành, Bà Rịa. Lúc ấy, nhờ có gia đình Phật tử là Ông Năm Ngọ, thấy hoàn cảnh gian nan nầy, phát tâm cúng một hecta đất để xây lại cơ ngơi, có chỗ an trú cho chư Tăng Ni, Chùa này theo sự chỉ định của Đức Tôn Sư là cơ sở II của Chư Tăng tổ đình Linh Sơn để Thượng Tọa Giác Hải (Nguyễn Văn Sảnh) chủ trì bảo quản. Trên núi là cơ sở I của Ni giới (Ni sư Huệ Giác Trưởng Tông Môn làm Viện chủ của hai cơ sở). Vì tuổi già sức yếu, hay đau bệnh nên Đức Tôn Sư trụ tại Cốc ở Tổ đình cơ sở II để dưỡng bệnh, hướng dẫn cho TT Giác Hải và đại chúng tông môn lo việc tái thiết Tổ đình, cũng như dạy dỗ khuyến tấn con cháu tu hành tốt, làm việc tốt để đóng góp tinh thần vàvật chất, việc làm của mình cùng chung xây dựng xã hội trong giai đoạn mới được tốt Đạo đẹp Đời. Công đức của Tôn Sư thật vô lượng, một bậc thầy khả kính đáng quý yêu, con cháu không bao giờ quên được.

Đến năm 1986, bệnh đã tái phát quá nặng, con cháu đưa đến Bệnh viện Nguyễn Trãi được Bác sĩ Lương Phán và các bác sĩ trong bệnh viện tận tình chăm sóc. Nhưng vì quá già yếu, nhận thấy nhục thân kiệt sức như đèn hết dầu, Ngài dặn môn đệ đưa về Quan Âm Tu Viện để lần cuối giã từ con cháu môn đệ, rồi an lòng về cảnh Phật đúng 22h30, ngày 30/07 Âm lịch, năm Bính Dần (1986). Ngài thâu thần nhập định ra đi thong thả an lành trong tiếng niệm Đại Bi của đại chúng tông môn con cháu Quan Âm Tu Viện.

Đại lễ tang được tổ chức trọng thể tại Quan Âm Tu Viện, hàng vạn Phật tử từ khắp mọi miền đất nước về dự lễ tang. Rất đông Chư Tôn Hòa Thượng hàng giáo phẩm của Giáo hội, các tôn giáo bạn đến dự lễ truy tiến, tiễn đưa kim quan Đức Tôn Sư, quí cấp Chính quyền trong và tỉnh Đồng Nai cũng đến chia xẽ nỗi đau với môn đệ tử Tôn Tổ đình Linh Sơn, Quan Âm Tu Viện. Kim Quan Đức Tôn Sư được nhập vào Đại Bảo Tháp “Pháp Tánh Thường Minh” tại Quan Âm Tu Viện ngày 05/08 năm Bính Dần (1986).

Cuộc đời Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng THIỆN hạ PHƯỚC, biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai là một gương sáng cho con cháu Đạo Đời, các thế hệ mai sau vẫn tôn thờ nhớ mãi. Chỉ có bảy mươi năm trụ thế, hết chín năm dâng hiến cuộc đời cho Tổ Quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ba hai năm phụng sự Đạo pháp dân tộc, lòng không ngừng làm việc thiện cho xã hội về mọi mặt. Góp Phần đào tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo hội mai sau, phụng sự thiết thực nuôi người già yếu, em cô nhi khuyết tật, nuôi dưỡng con cháu Cách Mạng, ủng hộ vật chất cho Thành Đoàn, Bộ Đội giải phóng chống Mỹ cho đến khi hòa bình.

Khuyến tấn dạy dỗ cháu con môn đệ đi theo đúng đường hướng chính sách của Đảng, Nhà Nước, phát huy truyền thống cao đẹp với tinh thần phục vụ, ủng hộ trong giai đoạn xây dựng đất nước được phồn vinh giàu mạnh.

Đức Tôn Sư được Đảng Nhà Nước tặng:

-         01 huân chương kháng chiến chống Pháp Hạng ba.

-         01 huân chương kháng chiến chống Mỹ Hạng ba.

Được Giáo hội tặng:

-         01 Bằng tuyên dương có công đức với Đạo pháp và Dân Tộc.

Ôi! Có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn phải chia ly! Bóng Thầy Mẹ đã ra đi vĩnh viễn đễ lại cho con cháu môn đệ một nỗi mất mát lớn lao, một nỗi niềm thương xót vô biên.

Ni Sư Huệ Giác xúc cảm đã viết bài thơ thương nhớ Đấng Chơn Sư khả kính, một trái tim Bồ Tát, Đấng Thầy Mẹ đáng kính yêu :

 Có một mùa thu bóng Mẹ ra đi

Theo gió thu đêm buồn

Sương thu phủ mờ, nước thu tràn dâng

Mẹ tôi ra đi

Giữa đêm gió buồn

Mây ngừng trôi, trăng ngừng soi, sao ngừng sáng

Ôi!

Mênh mông sóng lòng tràn dâng khắp cùng

Bao tình thương, bao tình nhớ nhung

Mẹ hiền xưa, vô thường sự thế

Chiếc bóng chia ly!

……………………………

 (Bài Điếu Văn)

Thầy Mẹ ơi! Đâu đỉnh non Lô cao ngất?

Đâu suối ngọc tuyền trong mát?

Đâu pháp nhũ nhuận tràn?

Đâu đề hồ nhỏ mát?

Đâu cam lộ rịn nhuần?

Ngài đã tách dặm băng ngàn

Chúng con còn khờ dại quá!

Xin Thầy Mẹ xót thương!

………………………………

Từ đây vắng bóng Tôn Sư, TT Giác Hải (Nguyễn Văn Sảnh) cũng là người cực khổ nhọc nhằn trong việc bảo quản núi rừng, lo lắng cho đại chúng. Vì thế, Ni Sư Trưởng Huệ Giác thường về núi để phụ việc tái thiết cơ sở Tổ đình từ trên núi, hang, cốc, am, điện đến chân núi và ra đến Tổ đình cơ sở II, phụ lo vật chất và đôn đốc tinh thần để đại chúng Tăng Ni nguôi bớt nỗi buồn, tinh tấn tu hành và phấn khởi làm việc Phật Sự Đạo Đời.

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Hòa Thượng Tôn Sư Và Nhân Duyên Sáng Lập Nhứt Nguyên Bửu Tự”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com