Kể từ khi loài người biết phát huy trí tuệ, chúng ta thấy rõ có hai khuynh hướng phát triển, khuynh hướng hướng nội và khuynh hướng hướng ngoại. Khuynh hướng hướng ngoại, gọi là ngoại quan, tức quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của sự vật bên ngoài giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự sống của hiện tượng giới. Sự hiểu biết của con người về mọi hoạt động thuộc lãnh vực hiện tượng vật chất bên ngoài được phát triển đến mức độ cao và trở thành môn khoa học tự nhiên ngày nay.
Khuynh hướng phát triển trí tuệ thứ hai đi theo con đường ngược lại, không hướng ra bên ngoài, mà quan sát ngược vào bên trong để tìm hiểu nội giới. Và sự hiểu biết về thế giới nội tâm được con người phát huy ở đỉnh cao, trở thành Thiền học sau này.
Trên lộ trình soi sáng nội giới theo khuynh hướng sống của các dân tộc phương Đông, có thể nói từ thời kỳ xa xưa, một hình thức Thiền đã có mặt ở An Độ với tên gọi là Yoga. Con đường phát triển sức sống tinh thần con người theo Yoga cũng từng một thời thống trị đất An.
Nhưng đến khi đức Phật hiện hữu và đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, chính ngài là người đạt đến vị trí cao nhất trong lãnh vực hiểu biết về nội giới của con người cũng như của muôn loài trên trái đất này. Thật vậy, khi Thiền định ở Bồ đề đạo tràng, đức Phật an trụ trong trạng thái lắng yên, thanh tịnh tuyệt đối, ngài đã quán sát tường tận mọi diễn biến của nội giới. Và từ sự thấu rõ nguồn cội của nội tâm qua đôi mắt sáng tuệ giác, đức Phật thấy biết mọi sinh hoạt của hiện tượng giới bên ngoài một cách rõ ràng. Ngài mới khẳng định rằng ba nghiệp thân, khẩu, ý của ngài từ đây hoàn toàn do trí tuệ chỉ đạo; mọi việc của ngài đều hành xử tốt đẹp hoàn toàn vì phát xuất từ sự hiểu biết đúng như thật của thiền định. Và những người có tâm hồn hướng thượng do Phật hướng dẫn, dẹp trừ được mọi ý niệm vọng tưởng điên đảo, cũng có được cái nhìn sáng suốt, họ đã trở thành những nhà minh triết lỗi lạc thời Phật tại thế.
Pháp Thiền định mà đức Phật đã thể nghiệm và chứng đắc, đưa đến đỉnh cao của sự giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử, dĩ nhiên hoàn toàn khác với thiền định của Bà la môn giáo hay các triết thuyết đương thời.
Sau khi Phật vắng bóng trên cuộc đời, các bậc cao đức đã tiếp nhận và triển khai yếu nghĩa của giáo pháp. Đặc biệt là lãnh hội được tinh ba của Thiền, tức tâm bình ổn và trí sáng suốt mà đức Phật trao cho, rất nhiều Thiền sư Việt Nam đã vận dụng vào cuộc sống, thể hiện thành những mẫu người đạo hạnh giúp cho mọi người nương theo tháo gỡ được những gút mắc trong đời thường và được sống an vui, giải thoát.
Riêng một vị vua nổi tiếng anh minh của đất nước chúng ta, đức vua Trần Thái Tông đã rất thành công ở lãnh vực triển khai tinh thần Thiền trong mọi sinh hoạt của vị đế vương. Thật vậy, từ khi đức vua lên ngôi, mọi việc lớn nhỏ từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội và những việc triều chính, tất cả đã bức ngặt ngài vô cùng. Ngài phải đối phó với biết bao vấn đề nan giải đến nổi cảm thấy mệt mỏi, mà không giải quyết được gì, cuối cùng rơi vào sự bế tắc hoàn toàn. Vì thế, đức vua nảy sinh ý nghĩ đi tìm một nhà tu hành ẩn dật để giúp ngài tìm ra con đường khai thông, một lối thoát tốt nhất.
Với quyết tâm cao độ của người có căn lành sâu dày, mới ở tuổi 20, đức vua Trần Thái Tông phải lén bỏ trốn lên núi Yên Tử trong màn đêm dày đặc để không ai phát hiện. Và duyên lành đã đến, trên đỉnh non cao không nhiễm bụi trần, đức vua đã gặp được vị Thiền sư ngộ đạo, ngài Đại Đăng quốc sư. Trên ngọn núi bạt ngàn thông già trong màn sương thanh tịnh tuyệt vời, tâm hồn đức vua đã được trí tuệ của Thiền sư khai sáng. Đức vua bừng tỉnh và cảm nhận sâu sắc con đường thực tập Thiền quán của ngài không phải ở non cao núi biếc này, mà phải thể nghiệm ngay tại triều đình, ngay trong việc trị nước an dân, ngay trong gia đình.
"Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần phải đi tìm cực khổ ở bên ngoài". Lời khai ngộ mà Thiền sư Đại Đăng trao cho đức vua đã giúp tâm hồn ngài cảm thấy thật sự thanh thản trên con đường quay trở về cung điện và đó cũng là hành trang quý báu của vua trong suốt 32 năm ở vương vị.
Thực hiện yếu chỉ của Thiền sư truyền trao, vua Trần Thái Tông sống cuộc đời lấy tâm của nhân dân làm tâm của mình. Vua vừa tổ chức nội trị tốt đẹp, vừa chống giặc ngoại xâm, vừa suy tư kinh điển và giảng giải Phật pháp. Bài học Thiền mà đức vua Trần Thái Tông tiếp thu có một giá trị sống thực, nghĩa là vận dụng chính cái tâm yên tĩnh và trí sáng suốt vào mọi việc, đem lại thái bình, thịnh vượng cho đất nước. Thành quả này của đức vua Trần Thái Tông còn lưu lại dấu son muôn đời trong lịch sử nước ta.
Về công phu tu hành của đức vua Trần Thái Tông, ngài đã lưu lại cho chúng ta những tác phẩm như Thiền Tông Chỉ Nam, Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, Bình Đẳng Lễ Sám Văn, Khóa Hư Lục, Thi Tập.
Đặc biệt là Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi là pháp sám hối gồm sáu thời tu tập trong một ngày để rửa sạch sáu giác quan bị ô nhiễm vì tiếp xúc với sáu trần. Đó chính là công phu tu tập mà đức vua Trần Thái Tông đã thành tựu giúp cho ngài thấy biết mọi việc chính xác, giải quyết tốt đẹp việc triều chính cũng như ổn định cuộc sống gia đình được yên vui, hòa thuận và riêng ngài tinh thần luôn trong sáng, định tĩnh.
Đức vua Trần Thái Tông chính là nhà Thiền học thật sự, đã thể hiện trọn vẹn sức sống Thiền ngay trong lãnh vực an bang tế thế. Ngài đã phất cao ngọn cờ Thiền giữa chính trường, tự tại giữa một nơi mà ai cũng biết mạng sống con người như sợi chỉ treo chuông ngàn tấn.
HT Thích Trí Quảng