VẤN: Con là một phật tử vừa mới bước vào cửa đạo, tham lam dục vọng mê đắm rất nhiều. Nhờ được bạn bè chỉ dạy nên con cũng có trì tụng chú đại bi cũng như niệm Phật. Mỗi lần trì niệm cũng giúp con phần nào kìm chế dục vọng của mình làm con rất mừng. Tuy nhiên, vì công việc gia đình và cá nhân, con không thể có thời giờ để ngồi trước bàn thờ tụng niệm cho đúng nghi lễ. Có khi con quét nhà, dọn dẹp và không mặc quần áo chỉnh tề nhưng con niệm Phật vậy con có mang tội bất kính với chư Phật không?
Đọc trên các diễn đàn trang nhà Phật giáo con lại thấy rất nhiều sự khác nhau trong bản chú đại bi, một số bản có sai lệch ít chữ, con không biết vậy thực ra bản chú đại bi nào là đúng nhất? Con sợ con đọc sai chú đại bi, là kim khẩu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ không có kết quả. Con hoang mang vô cùng, xin Sư cho con biết con nên đọc bản chú đại bi nào là đúng nhất? Con xin thành thật cảm ơn.
ĐÁP:
Đã gọi là “Đại bi tâm Đà ra ni”, tức là Bồ tát tổng trì các pháp và vượt qua mọi trở lực để đạt đến cứu cánh. Người tụng thần chú Đại bi là nhằm giúp cho tam nghiệp gở bỏ lần nghiệp lực tham sân si của chúng sanh, tiến đến bờ giác, an lạc, mục tiêu mình muốn đến. Vì vậy khi muốn tụng thần chú phải phát nguyện, công cứ theo thời biểu sinh hoạt trong gia đình; đến giờ tụng kinh thì tụng kinh, đến giờ làm việc thì làm việc, đến giờ ăn thì ăn… Người Phật tử khi muốn làm một việc đại sự cần phát nguyện, nguyện thực hiện công việc đạt tiêu chí. Quá trình phát nguyện tụng thần chú Đại bi, các vị nên khuôn thước theo thời biểu vào thời gian rổi rảnh, khoảng 22, 23 giờ, mỗi thời khóa tụng thần chú từ 30 phút đến 60 phút. Trước khi tụng thần chú phải thực hiện nghi thức khóa lễ do quý Thầy chế tác quy định
Nghi thức trì tụng
Tịnh pháp giới chơn ngôn:
An lam tóa ha (7 lần)
Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:
An ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ đạt ma ta phạ bà phạ thuật độ hám (3 lần)
Kính lạy đức Thế tôn,
Quy y các Phật đà,
Nay con phát đại nguyện
Trì tụng chú Đại bi,
Trên trả bốn ơn nặng,
Dưới giúp ba đường khổ.
Những người thấy, nghe được
Đều phát tâm bồ-đề,
Thực hành hạnh trí huệ,
Tập hợp mọi phước đức
Báo thân này kết thúc,
Đồng sanh cõi cực lạc.
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần)
Phật pháp tuyệt diệu,
Cực kỳ cao xa,
Trăm ngàn vạn kiếp
Khó mà gặp được.
Nay con thấy nghe,
Lại được thọ trì
Nguyện cầu thấu hiểu
Ý thật của Phật.
Kính nghe
Đấng viên thông giáo chủ,
Vẻ từ ái trăng tròn.
Hầu Di Đà nơi Cực lạc phương Tây,
Giúp Thích Ca cõi Ta bà uế trược.
Ở trên núi báu lưu ly
Ngự giữa sen hồng nghìn cánh,
Quá khứ là Chánh pháp minh vương,
Hiện nay là Quán âm tự tại,
Ba mươi hai ứng rộng độ quần sinh,
Bảy nạn, đa cầu, nhiều phương ứng vật.
Sức mầu thù thắng
Tán thán khôn cùng.
Ngưỡng trông đức cả từ bi
Rũ lòng thương tưởng.
Hôm nay ngày … tháng … năm … Đệ tử … quy đầu Tam bảo, trì tụng chú Đại bi, hồi hướng công đức cầu nguyện (nguyện cầu … ) Cúi mong Phật đức từ bi không thể nghĩ bàn, ban ơn gia hộ.
Nam mô Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán-thế-âm Bồ-tát.
Cúi lạy Quán âm đại bi chủ,
Nguyện lực sâu dày tướng hảo thân.
Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì.
Nghìn mắt sáng ngời soi muôn nẻo.
Mật ngữ phô bày trong thật ngữ,
Bi tâm khơi dậy giữa vô tâm.
Khiến con sớm trọn các mong cầu,
Vĩnh viễn diệt trừ bao tội chướng.
Long thiên thánh chúng thường gia hộ.
Trăm nghìn tam muội trọn huân tu.
Thọ trì, thân con quang minh tràng.
Thọ trì, tâm con thần thông tạng.
Rửa sạch trần lao nương biển nguyện,
Siêu chứng bồ đề phương tiện môn.
Con nay xưng tụng, thề quy y
Sở nguyện như lòng thảy trọn đủ.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng thông hết thảy pháp.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm chứng mắt trí huệ.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng độ hết muôn loài.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm trọn phương tiện khéo.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng lên thuyền bát-nhã.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm vượt qua bể khổ.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng tròn giới định đạo.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên đỉnh niết bàn.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng đến nhà vô vi.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nguyện con nhìn núi đao,
Núi đao tự gãy đổ.
Nguyện con nhìn vạc dầu,
Vạc dầu tự khô cạn.
Nguyện con nhìn địa ngục,
Địa ngục tự tiêu diệt.
Nguyện con nhìn ngạ quỷ,
Ngạ quỷ tự no đủ.
Nguyện con nhìn tu la,
Ac tâm tự dập tắt.
Nguyện con nhìn súc sanh,
Tự chứng thành đại trí.
Nam mô Đại bi hội thượng Phật, Bồ tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát bà tát đa (na ma bà tát đa), na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.
(Trì tụng 3 lần, 7 lần, 21 lần, 49 lần hay 108 lần…bao nhiêu lần tùy ý).
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời thường an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Nguyện đức Từ bi thường gia hộ.
Nguyện tiêu ba chướng, trừ phiền não,
Nguyện chơn trí huệ thường sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường tu bồ tát đạo.
Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây,
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh,
Bất thối bồ tát là bạn hữu.
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Gặp được thần chú Đại bi, thì Phật tử trì tụng, được vô lượng công đức, không nên nghi ngờ đúng sai, bản thần chú thuộc Phạn ngữ (Ấn độ), người dịch thần chú không bao giờ dịch sai; chỉ có người miền Bắc và miền Nam nước ta dịch có khác theo ngôn ngữ địa phương mà thôi.
Ví dụ bản dịch theo miền Bắc thì đọc: …Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni – bản dịch miền Nam thì đọc: …Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.
Bản dịch cũ: …Tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha…
Bản dịch mới: …Tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha…
Gia đình Phật tử phát tâm tụng thần chú ở bản kinh nào thì tụng theo bản kinh đó, không phải bị lỗi.
HT Thích Giác Quang