Mỗi năm đến rằm tháng bảy, mọi người con thảo cháu hiền không ai bảo ai, tự nhiên cảm thấy lòng mình lâng lâng nỗi niềm bâng khuâng tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ. Đặc biệt là những vùng khí hậu bốn mùa rõ rệt, khi lá thu vàng lác đác nhẹ rơi, lại càng khơi dậy lòng người cái cảnh sanh ly tử biệt, nỗi nhớ niềm thương. Lòng người con thảo cháu hiền lại càng nao nao da diết hơn bao giờ hết. Nhất là hình ảnh chư tăng cầu nguyện, khói hương quyện tỏa, khung cảnh trang nghiêm của mùa Vu-Lan báo hiếu lại sống dậy nơi lòng:

Mỗi độ thu sang rằm tháng bảy
Hồn con nương tựa bóng từ bi
Trầm hương quyện tỏa kinh cầu nguyện
Cửu huyền phụ mẫu đắc thoát ly

Vu-Lan phiên âm từ tiếng Phạn là Ullambana, người Trung-Hoa dịch là giải-đảo-huyền, có nghĩa là giải cứu tội khổ treo ngược. Ý nói tội nhân đọa trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh bị nghiệp lực hành hạ khổ đau như người bị treo ngược được giải cứu.

Vu-Lan nói cho đủ là Vu-Lan-Bồn. Bồn là dụng cụ đựng đồ như cái thau. Ngày xưa chưa có thau bằng nhôm, người ta dùng bồn bằng sành để đựng các phẩm vật. Vu-Lan-Bồn là cái bồn để đựng phẩm vật dâng cúng dường chư Tăng trong lễ trai tăng để cầu nguyện cho cha mẹ ông bà thân thuộc quá cố nhờ công đức đó mà được giải thoát khổ đau trong ba đường ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hoặc cầu phước cho cha mẹ hiện tiền được tăng trưởng phước thọ.

Lễ Vu-Lan-Bồn được dẫn từ tích truyện ngài Mục-Kiền-Liên tôn-giả cứu độ mẹ là bà Thanh-Đề. Chuyện nầy được Phật thuyết giảng trong kinh Vu-Lan-Bồn. Kinh dạy rằng: Tôn-giả Mục-Kiền-Liên sau khi tu hành chứng quả A-la-hán, dùng thiên nhãn quán xem cha mẹ hiện ở phương nào để đến thăm. Không ngờ thấy mẹ đang đọa trong loài ngạ quỷ đói khát thiêu đốt khổ sở, Mục-Kiền-Liên xúc động rơi lệ:

Đôi mắt long lanh lệ ướt đầm
Khóc tìm từ mẫu cõi xa xăm
Lỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng
Phụ đức sanh thành biết mấy năm
Tấc dạ báo đền ân nghĩa nặng
Tấm lòng mong nguyện thiếu tình thâm
Vì chăng Phật dạy Vu-Lan hội
Luống để cho ai những khóc thầm

Thấy mẹ đói khát như vậy, Mục-Kiền-Liên liền vận dụng thần thông bưng cơm đến dâng mẹ. Bà Thanh-Đề đói khát lâu ngày, vừa thấy bát cơm của người con hiếu Mục-Kiền-Liên, lòng tham bỏn xẻn chổi dậy sợ các quỷ khác đến giành giựt xin ăn, nên cơm vừa để vào miệng thì nghiệp lực tham sân bỏn xẻn hóa cơm thành lửa phừng cháy cả mặt miệng bà. Tình trạng đau lòng nầy khiến thi nhân xúc cảm thơ rằng:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng
Đây còn tình nặng trong tha thiết
Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong.

Chứng kiến cảnh đau lòng không thể tả, quá xúc động, tôn-giả Mục-Kiền-Liên bật khóc thảm thiết, liền vội vã trở về tinh-xá Kỳ-Hoàn bái kiến Phật, đem hết tự sự khổ tâm vừa rồi khẩn bạch lên đức Như-Lai cầu mong Ngài chỉ dạy phương pháp cứu mẹ.

Đức Phật động lòng giảng nói: “Mẹ ông khi còn sống ở đời vì quá tham lam bỏn xẻn, lại không tin sâu Tam-Bảo, khinh thường luật nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, chẳng biết cúng dường bố thí làm phước, xem nhẹ Tăng Ni, khinh khi hủy báng người tu hành, chê bai biếm nhẽ người làm việc lành thiện, hay dèm pha chế nhạo người nhiệt tâm hộ đạo phò trì Tam-Bảo, cười chê người tụng kinh niệm Phật đi chùa công quả nghe thuyết pháp. Mẹ ông ngày ngày chỉ biết lo gom góp tiền của, cúng bái tà thần ngoại đạo cầu mong sao cho được giàu có nhiều thêm. Do vậy mà tội lỗi chất chồng như tảng đá núi. Tuy ông gắng công tu hành ngày nay chứng được đạo quả A-la-hán đầy đủ sáu phép thần thông, nhưng thần lực công đức của một mình ông như một chiếc bè không thể nào chở nổi tảng đá núi tội ác lớn kia, mà phải cần nhiều bè kết lại mới vận tải nổi. Vậy nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ hàng xuất gia trưởng tử Như-Lai đã tròn đầy ba tháng an cư kiết hạ, tinh tấn chuyên tu thân tâm thanh tịnh, công đức cao dày, thêm được tuổi đạo. Ông nên nhân dịp rằm tháng bảy đó mà đem tất cả của cải mẹ ông đã gom góp để lo sắm sửa trai nghi, rồi thân hành đi khắp nơi tìm thỉnh những bậc chân Tăng giới đức về để dâng cúng dường trai tăng, nhờ đức thanh tịnh với sức nhất tâm chú nguyện của các vị chân tăng ấy thì sẽ chuyển hóa được tâm nghiệp của mẹ ông. Làm như thế mới mong được toại nguyện báo hiếu cứu mẹ.”

Nghe Phật dạy xong, mừng quá, tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền đem hết tâm thành thực hiện như lời Phật dạy, ngay đó, bà Thanh-Đề được thoát kiếp ngạ quỷ, sanh về cõi trời hưởng phước với chồng. Chồng bà lúc sanh tiền thường làm việc phước thiện, giúp đỡ chư tăng, cúng dường Tam-Bảo, sống đời lành thiện, nên sớm đã sanh về thiên giới. Thi nhân có lời cảm động thơ rằng:

Mẹ hiền về chốn thiên cung
Toại lòng con thảo nguyện cùng thánh tăng
Từ bi công đức vạn năng
Mấy ngàn năm vẫn chưa từng đổi thay
Chư tăng trọn chín mươi ngày
Cát tường bảo tọa giãi bày tâm can
Bao nhiêu nghiệp hải chướng san
Đây ngày tự tứ sạch ngàn ác duyên.

Trong Phật pháp thường gọi rằm tháng bảy là ngày Vu-Lan thắng hội. Thắng hội có nghĩa là pháp hội thù thắng. Hội là sự tập họp của chư Phật, Bồ-Tát, chư Tăng, tứ chúng đệ tử của Phật. Tập họp như chánh pháp, thực hành như chánh pháp. Thù thắng có nghĩa là tốt đẹp nhứt, phước đức to lớn nhứt, năng lực nhiệm mầu vi diệu tuyệt vời nhứt không có gì trên đời sánh kịp. Vậy Vu-Lan thắng hội là pháp hội công đức đặc biệt thù thắng có năng lực thần diệu giải cứu tội nhơn được siêu thoát. Ý nghĩa nầy được thấy từ trong kinh Vu-Lan-Bồn, kinh Báo-Phụ-Mẫu Trọng-Ân và được kết tinh thành dân gian ca dao: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Tại sao con phải có bổn phận hiếu kính cha mẹ? Phật nói rõ trong kinh Báo-Phụ-Mẫu Trọng-Ân. Điều nầy khắp thiên hạ đều biết: Không có cha mẹ thì không có thân thể hình hài của ta. Cha mẹ ta đã cho ta cái thân thể này:

Có ông bà mới có ta
Ông bà là gốc, mẹ cha là cành
Thân ta như thể lá xanh
Nhờ gốc vun bón, nhờ cành chở che…

Mẹ đã mang nặng đẻ đau, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con chơi. Cha đã phải ngày ngày vất vả ngược xuôi để kiếm tiền nuôi con. Từ khi mang con trong thai cho đến ngày tiếng khóc chào đời, lúc nào cha mẹ cũng hồi hộp lo âu không biết con mình có được vuông tròn nguyên vẹn không! Con vừa ra khỏi lòng mẹ, nghe tiếng khóc đầu tiên của con thì mẹ mới thật mừng hết lớn, quên đi nỗi đau đớn như dao cắt xé thịt banh da. Lúc đó cha mới mỉm cười nhìn thấy mặt con như trút được gánh nặng lo âu. Từ khi con cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày khôn lớn, cha mẹ dồn hết tâm lực lo cho con mà quên ăn bỏ ngủ, không đủ thời giờ để tắm gội điểm trang. Tiếng khóc của con là nỗi lo âu buồn đau của cha mẹ. Tiếng cười của con là niềm vui gia đình. Những khi trái gió trở mùa, những lúc mọc răng khát sữa, con nổi chướng dẫy dụa, dặm đạp, khóc la, thì mẹ vẫn một lòng dịu ngọt ru con:

Nuôi con trong lúc dỗi hờn
Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào.

Tình mẹ đối với con bao la như trời cao bể rộng, như sóng nước rạt rào, như trăng sao đêm tối, như gió thoảng nắng hạ, như tiếng hát lời ca:

Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian
Tiếng ru mẹ ấm vô vàn
Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương

Dài đăng đẳng suốt tháng năm, cha mẹ lo chăm sóc cho con từ ăn, mặc, ngủ, chơi. Tất cả những gì ngon nhất, vui nhất, tốt đẹp nhất đều dành để cho con. Đến đỗi vì muốn cho con được nên danh nên phận, mà có lúc cha mẹ phải hy sinh danh dự, giá thể của mình, để hạ mình luồn cúi nài nỉ xin nhờ người ta:

Mẹ cho con tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu, là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu…

Từ khi có con, mẹ cha vì lo tương lai cho con mà phải hy sinh thú vui ngon đẹp trên đời để chăm sóc con. Gặp lúc gia cảnh khó khăn, cha mẹ phải ngày đêm ngược xuôi chạy lo tìm kế sanh nhai, để cho con mình no ấm. Hoặc chẳng may gia đình lâm vào túng quẫn, thì cha phải lam lũ vất vả tay chân, mẹ phải buôn gánh bán bưng, một nắng hai sương, chân lấm tay bùn để nuôi con yên tâm ăn học cho bằng chúng bạn, không để con đói rách tủi phận:

Ôi! Chiếc lưng của mẹ
Đã còm bởi thương đau
Ôi! Cuộc đời của mẹ
Trăm năm nối chuyện sầu

Vì con mà mẹ phải lưng còm, tóc bạc da nhăn ốm gầy. Khi con lớn khôn, cha mẹ lại lo lập thành gia thất, rồi tiếp tay săn sóc nuôi bồng cháu chắt. Dù con nay đã lớn, đã có vợ chồng con cháu, gia nghiệp, danh vọng ở đời, nhưng lòng mẹ bao giờ cũng thương tưởng, cũng để tâm chăm lo nghĩ nhớ con như thuở còn thơ ấu. Cho dù con không thương thích mẹ, hay chống báng không vâng lời mẹ dạy cha khuyên, hoặc nay có danh vị giàu sang quyền quý mà khinh chê mẹ quê mùa lỗi thời lạc hậu xấu xí mà xa lánh mẹ, thì mẹ chỉ còn biết âm thầm buồn tủi, nhưng vẫn một lòng canh cánh thương con, tâm tư của mẹ không lúc nào rời con, cho đến hơi thở cuối cùng, để rồi mang tình thương trong trắng đó về bên kia thế giới:

Nuôi con trong lúc dỗi hờn
Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào
Một đời vốn liếng mẹ trao
Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi

Cha mẹ thương con, nuôi con và hy sinh trọn đời cho con. Lắm lúc vì con mà cha mẹ quên mình. Từ khi con còn nằm trong thai mẹ, sanh ra nuôi nấng lớn khôn học hành, cho đến ngày dựng vợ gả chồng lập thành gia thất, và có sự nghiệp danh phận trong xã hội, lúc nào cũng được tình thương và bàn tay dịu hiền nâng niu chăm sóc giúp đỡ của mẹ. Ân đức sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹ như trời cao biển rộng, không bút mực nào viết cho hết, không lời nào diễn tả cho cùng:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Công ơn cha mẹ như trời biển, bổn phận làm con phải như thế nào để đền đáp đây? Chúng ta đều biết không có cha mẹ thì không có thân ta. Nếu không có tình thương nuôi dưỡng của cha mẹ, thì ta không thể sống còn và khôn lớn đến ngày nay. Bao nhiêu ngọt bùi cha mẹ đều nhường cho con. Tất cả tình thương ngọt bùi mẹ đều trao trọn cho con. Bao nhiêu đắng cay cha mẹ đều nhận lấy, miễn sao con mình mạnh khỏe vui vẻ ăn học là cha mẹ mừng. Thế nên con còn cha mẹ là trọn hưởng bầu trời ấm cúng thương yêu vỗ về sung sướng:

Sung sướng nhỉ những người còn mẹ
Còn mẹ là còn cả đất trời
Đau đớn nhỉ những người mất mẹ
Mất mẹ là mất hết em ơi!

Vậy trước nhất con phải hết lòng giúp đỡ chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ cơm áo thuốc thang và nhu cầu vật dụng đừng để cha mẹ thiếu thốn. Thường nên sớm hôm thăm viếng an ủi khi cha mẹ tuổi già sức yếu bịnh hoạn, đừng hờ hững, quên mà tội nghiệp hai đấng sanh thành. Điều đặc biệt là nên khuyên cha mẹ phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi, nghiệp báo, làm việc phước thiện để tu bồi phước đức, tâm thức cha mẹ nhờ đó mà được an lành. Thân nầy quan trọng, nhưng rồi một ngày kia cũng phải chôn vào lòng đất lạnh hoặc thiêu thành tro bụi. Thân tứ đại giả hợp trước sau gì rồi cũng trả về cát bụi. Phần tinh thần tâm linh mới thật sự là quan trọng hiện đời và cho đời tương lai kiếp sau.

Người sống ở đời mà không có niềm tin thì tinh thần không nơi nương tựa, tâm thức trở nên trống rỗng bơ vơ, như thuyền lênh đênh trên biển cả không bến bờ để đậu, không cảng khấu để về cập bến. Như thế thì tâm linh lạc lõng long đong mãi mãi chìm sâu trong đêm dài tăm tối. Cho nên, người con thật sự hiếu thảo đạo đức sống có ý thức, thì ngoài việc phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ ra, còn phải báo đền ân cha mẹ bằng tinh thần, mà phần nầy thật rất quan trọng và cần thiết cho đời sống hiện tại và tương lai, ấy là khéo khuyên cha mẹ tin Phật pháp, làm việc phước thiện, tu tâm dưỡng tánh.
Khi bà Kiều-Đàm di mẫu của Phật là Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề ba lần xin được xuất gia, nhưng đức Phật đều từ chối. Bà thất vọng than khóc cho thân phận mình thiếu phước bạc duyên không được Phật nhận cho xuất gia! Tôn-giả A-Nan thấy vậy động lòng vào bạch Phật. Đức Phật nói: “Đạo pháp của ta nếu trao cho nữ giới hoằng truyền thời gian không quá 500 năm sẽ suy tàn”. A-Nan nghe thế mới thiết tha kể lể với Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Khi Ngài vừa sanh ra bảy ngày, thì Hoàng-hậu nhờ phước báu sanh lên cõi trời, di mẫu là người lo săn sóc nuôi Ngài lớn khôn. Nay Ngài tu thành Phật, tưởng cũng nên nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng đó mà phương tiện cho di mẫu Kiều-Đàm xuất gia tu hành”. Đức Phật đáp: “Ta đã khuyên giảng cho di mẫu hiểu biết Phật pháp, phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả, luân hồi, tội phước, nghiệp báo, đó là cách báo đền ân đức nuôi dưỡng bền chắc cao cả nhất. Di mẫu đâu thiếu vật chất, còn tinh thần thì ta đã trao cho đầy đủ rồi! Ta rất kính quý di mẫu, nhưng đạo pháp trao cho nữ nhơn lãnh đạo thì sau 500 năm sẽ suy tàn, trừ phi chịu nghiêm chỉnh thọ trì giới luật và thực hành pháp Bát-Kính-Giới”. Di mẫu Kiều-Đàm thành tâm phát nguyện hoan hỷ nhận lãnh nghiêm chỉnh thọ trì tất cả giới pháp mà đức Phật nêu ra, nên được Phật chấp thuận cho xuất gia và trở thành Tỳ-kheo-ni đầu tiên của phái nữ.






Như thế đủ thấy báo đền ân nghĩa sanh thành dưỡng dục về phần tinh thần quan trọng biết là dường nào. Đạo Phật đặc biệt chú trọng về hiếu kính cả vật chất như cơm áo thuốc thang quạt nồng đắp lạnh và báo hiếu về phần tinh thần là khéo khuyên cha mẹ tu tâm dưỡng tánh hành thiện tin Phật pháp. Nếu chỉ báo hiếu bằng vật chất không thôi thì vẫn còn là phiến diện chưa đủ, không khéo lại chỉ tạo thêm tội lỗi mà thôi. Như sách Trung-Hoa Ngoại-Truyện có câu chuyện báo hiếu thương tâm như sau: “Vào thời nhà Lương có cậu Lý-Phước-Tài nhà nghèo, ngày ngày phải chăn trâu mướn cho ông phú hộ Đỗ-Trường-Thạnh. Cậu Tài tánh tình hiền hậu nhanh nhẹn vui vẻ lại thông minh. Cô gái út của ông phú hộ được cưng chìu nên ít thích chịu học hành, ngày ngày thường lén ông bà phú hộ để đến chuyện trò chơi giỡn với cậu Tài. Nhờ vậy, cậu Tài mượn được sách của cô Út và sách cũ của các người anh cô đã học thi đỗ đạt làm quan. Với trí thông minh, với tinh thần hiếu học, ngày chăn trâu ngoài đồng tay không rời sách, tối lùa trâu về chuồng ăn cơm nguội canh thừa của chủ để lót dạ, lòng tự xót xa cho thân phận nghèo mình, với ước mong ngày kia có tiền nuôi dưỡng cha mẹ được sung sướng đầy đủ như ông bà phú hộ. Ý nghĩ đó nung nấu trong lòng cậu bé nghèo Lý-Phước-Tài, nên ngày đêm cậu âm thầm ra sức gắng công tự học sách. Chẳng bao lâu cậu làu thông sách sử thi đỗ trạng nguyên, được triều đình trọng dụng làm quan tể tướng. Cậu bé Lý-Phước-Tài trước đây ở mướn chăn trâu, bây giờ đường đường là một tể tướng. Quan tể tướng hết lòng hiếu kính mẹ cha, cung dưỡng tất cả những món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị không thiếu thức gì. Giờ đây cha mẹ quan tể tướng ra vào có kẻ hầu người hạ. Thói thường “nhàn cư bất thiện, dục lạc biến tâm”. Chẳng bao lâu, cha mẹ quan tể tướng đắm say hút sách, rượu chè say sưa, cờ bạc đêm ngày, lại còn ỷ quyền thế con mình nên đâm ra hống hách sinh ra lắm chuyện. Tiếng dị nghị đến tai, nhưng quan tể tướng vẫn lờ đi, vì nghĩ rằng cha mẹ đã trải qua hơn nửa đời người thiếu thốn cực khổ bây giờ được hưởng vui thú thì cũng chẳng có sao và mình cũng đã báo hiếu. Chẳng bao lâu hai ông bà cụ qua đời. Quan tể tướng nhớ thương tiếc nuối cha mẹ, hạ lệnh giết heo, bò, dê, gà lo ma chay, rượu thịt linh đình, cúng tế đãi đằng đồng liêu, lòng tự mãn là mình đã báo hiếu mẹ cha thật là trọng thể đầy đủ lễ nghi. Quan tể tướng được tiếng khen là đứa con chí hiếu và triều đình ban khen “hiếu tử khả phong”.

Một ngày nọ, Tế-Điên Hòa-Thượng được vua Lương-Võ-Đế mời vào cung thuyết pháp. Ngồi trên pháp tòa, hướng về nhà vua, Hòa-Thượng nói: “Trong triều của Hoàng-Thượng có một kẻ bất hiếu nhất thiên hạ! Nghe nói thế tất cả đều giựt mình kinh ngạc. Nhà vua bạch hỏi, thì Tế-Điên Hòa-Thượng chỉ thẳng vào quan tể tướng Lý-Phước-Tài nói: “Chính người nầy đã giam cha nơi địa ngục, đày mẹ trong loài súc sanh!” Nghe thế, mọi người vô cùng quái lạ, vì quan tể tướng xưa nay được tiếng khen là người con chí hiếu đáng làm gương mẫu đồng liêu và thiên hạ, chẳng kém gì Tử-Lộ, đồ đệ của Khổng-Tử ngày xưa. Lúc bấy giờ quan tể tướng thất sắc mất hồn sụp lạy xin Hòa-Thượng thương tình giải rõ. Sau khi tể tướng nghe Hòa-Thương giải rõ nguồn cơn, liền cầu Tế-Điên Hòa-Thượng chỉ dạy phương cách cứu độ cha mẹ. Hòa-Thượng nói ngắn một lời: “Y theo cách làm của tôn-giả Mục-Kiền-Liên!”

Ngay ngày hôm sau quan tể tướng sai các quan thuộc hạ đi tìm thỉnh các bậc cao tăng bốn phương về dinh để thiết đàn chay cúng dường trai tăng siêu độ. Nhưng hai tháng trôi qua chẳng thấy bóng cao tăng nào đến dinh tể tướng. Lấy làm lạ, nên quan tể tướng lại đến cầu hỏi Tế-Điên Hòa-Thượng thì được chỉ giáo: “Ông đích thân cầu thỉnh chưa chắc các Ngài có hứa khả đến không, huống hồ là nhờ thuộc hạ! Các bậc cao tăng chân đức lánh xa quyền thế. Học rộng hiểu nhiều, quan to chức lớn như ông mà không biết người chân tu thường hay xa lánh chốn hồng trần phồn hoa đô hội quan quyền hay sao?”
Như tỉnh ngộ, sau đó quan tể tướng đích thân đi thỉnh cầu chư tôn đức cao Tăng, và hoàn thành lễ trai tăng siêu độ. “Tế-Điên Hòa-Thượng đẹp dạ cười khen: “Hiếu tử lưu phương! Giờ đây cha mẹ ông đã được siêu thoát cảnh khổ, sẽ đầu sanh làm người trong hoàn cảnh tốt”.

Qua câu chuyện trên đủ biết, kính thương báo hiếu cha mẹ mà chỉ lo phần vật chất không thôi, thì quả thật chưa đủ ý nghĩa báo đền công ơn sanh thành dưỡng dục, chưa thật sự hết lòng thương cha mẹ. Điều quan trọng là phải hết lòng khuyến hóa cha mẹ biết tu tâm dưỡng tánh, hỷ xả làm lành, bố thí cúng dường, quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả nghiệp báo luân hồi, đó mới thật là vẹn toàn báo hiếu.
Cha mẹ lỡ làm những điều không lành thiện, tin theo những việc bất chánh, cúng bái tà đạo thần linh, mê tín dị đoan, kết thân bạn ác, đam mê cờ bạc nhậu nhẹt rượu chè, thì bổn phận làm con phải khuyên can, khéo tìm lời ngọt dịu khuyến hóa để đưa cha mẹ hồi tâm hướng thiện chánh tín Phật Pháp, đó mới thật là báo hiếu, mới đích thực cứu độ tinh thần cha mẹ. Không phải cứ kính chiều theo ý muốn cha mẹ làm những điều bất chánh tổn đức là báo hiếu. Còn khuyến hóa cha mẹ tu theo chánh đạo tu bồi phước đức, việc nầy có thể làm buồn lòng ông bà cha mẹ không vui, nhưng không phải là bất hiếu. Cha mẹ cũng còn là phàm phu, tham sân si phủ dày tâm thức, lắm lúc cũng mê muội lầm lỗi. Thế nên người con hiếu thảo khôn ngoan, theo tinh thần đạo Phật, phải sáng suốt trong việc báo hiếu.

Khi cha mẹ còn hiện tiền thì sớm hôm chăm sóc cung cấp đầy đủ vật chất, khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành phát tâm tin Phật Pháp. Khi cha mẹ qua đời, phải thành tâm dốc hết khả năng lo việc trai tang cầu siêu độ. Cha mẹ ông bà có siêu thoát thì gia phong con cháu mới có cơ phát đạt. Cha mẹ qua đời mà cứ khóc than cho thật thảm thiết, mà tiền bạc thì không dám bỏ ra để lo cúng dường trai tăng, bố thí, làm phước thì người chết khó mà được lợi lạc siêu thoát và sự khóc than chẳng giúp ích gì cho cả người chết và kẻ còn sống. Đã chẳng những không làm phước, mà lại bày biện tiệc tùng rượu thịt đãi đằng rình rang, thì chỉ buộc ràng thêm tội lỗi cho cả đôi bên kẻ chết lẫn người sống mà thôi. Nếu thật sự thương người chết, thành tâm cứu độ người chết, điều tốt nhất là thỉnh chân Tăng và mời bạn bè thân quyến đến chùa cầu siêu hộ niệm hồi hướng công đức cho hương linh, và nếu cần thì nên đãi chay lạt cho bạn bè, thiết lễ cúng dường trai tăng, như thế hương linh mới được phước đức siêu thăng giải thoát. Với tâm thành siêu độ như vậy, họa hoằn mới đền trả ân đức sanh thành, mới đáp lại phần nào tình thương mẹ cha:

Mẹ cha là cả trời thương
Là nguồn sống của thiên đường trần gian
Mẹ cha về cõi Niết-Bàn
Lòng con toại nguyện, muôn vàn nhớ thương

Dù còn trẻ hay đã lớn khôn, dù đang trong cảnh hàn vi hay đã có quyền uy danh vọng, dù sống gần hay sống tha hương viễn xứ, sống ở bất cứ trường hợp hoàn cảnh nào, người con cũng không thể quên và không được phép quên ân nghĩa sanh thành dưỡng dục báo hiếu mẹ cha. Ta hãy nghe người xa quê hương hướng về quê mẹ:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều

***
Mẹ ơi! Thương nhớ là thương nhớ
Nhớ mẹ, nhớ làng nước quê hương

Tình thương cha mẹ rộng lớn bao la như trăng sáng, dịu hiền, êm đềm, bùi ngọt như nải chuối buồng cau, xót xa vui buồn với bao kỷ niệm thấm sâu nơi lòng. Tình thương đó đã hòa đồng với tình thương quê hương. Người con khi nghĩ nhớ mẹ cha thì lòng như mở rộng, rạt rào sức sống khắp trong mạch máu buồng tim. Nhớ mẹ thương mẹ lòng cảm thấy êm đềm:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi nhân gian còn phiếm xuân cầm
Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi em còn có mẹ trong tâm

Đến như người lính chiến cộng sản bị tuyên truyền lường gạt, chịu bao nỗi đắng cay đoạn trường, thiếu tình thương, bị đối xử nghiệt ngã, sống trong rừng núi, cảm thấy bùi ngùi tủi thân bị đọa đày, đã thổn thức thốt lên tiếng than đang khao khát tình thương mẹ hiền:

Giày vẹt gót, áo sờn vai giá lạnh
Mỗi chiều Trường-Sơn núi đồi cô quạnh
Mẹ hiền ơi! Con chợt nhớ quê mình

Cho dù sống trên nhung lụa giàu sang mà khô cạn lòng hiếu kính, quên đi lòng nhớ mẹ thương cha, thì có lúc nào đó sẽ cảm thấy bơ vơ không nơi nương tựa. Người con dù lớn đến đâu, nếu thiếu vắng tình thương của cha mẹ thì chẳng khác nào sống trong sa mạc, thiếu chất liệu gắn bó mát dịu ấm lòng:

Mẹ ơi! Tro bụi về tro bụi
Lầu ngọc bằng đâu một góc vườn
Ai mải mê tìm son phấn giả
Con xin đạm bạc một cành đơn
Màn trời hiếu tử nghe sao ấm
Nệm quí công hầu biết có hơn

Những ai đã mải mê theo đuổi công danh sự nghiệp hoặc đắm chìm trong dục vọng mà quên đi bổn phận hiếu kính báo đền ơn nghĩa mẹ cha, để song thân tuổi già phải chiếc bóng lụm cụm không người đỡ đần săn sóc, thì hãy nghe tiếng gọi tình người:

Đi đâu bỏ mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng
Đói lòng ăn bát cháo môn
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung

Người con đến tuổi trưởng thành, ngày mai nầy phải ra đi thi hành nhiệm vụ quốc gia dân tộc, hay lập gia thất theo chồng xa quê, thì đêm nay dắt tay em ra hiên nhà dưới bóng trăng tà mà thủ thỉ thở than gửi gắm bổn phận mình lại cho em để nhờ em thay mình sớm hôm đỡ đần chăm sóc mẹ cha:

Em ơi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em hái, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi muôn dặm trăm đường xót xa

Nếu cha mẹ đã ra người thiên cổ, thì ông bà tiên tổ chúng ta đã có dạy: “Sống có nhà, thác có mồ.” Nấm mồ là chỗ cuối cùng của kiếp sống, là nơi kỷ niệm nghìn thu của đời người. Vì vậy con thảo cháu hiền đối với cha mẹ lúc sanh tiền nên lo phụng dưỡng báo hiếu, khi qua đời nên cúng trai tăng siêu độ, xây lăng mộ để phụng thờ:

Công cha ba năm tình thâm cốt nhục
Nghĩa mẹ chín tháng dưỡng dục cưu mang
Biết lấy chi đền nghĩa thâm ân
Chừ đôi lứa mình lên non gánh đá xây lăng phụng thờ.

Đạo hiếu rất là trung hậu trọng đãi như vậy, nên kinh sách thánh hiền nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên.” Nghĩa là, hiếu đạo đứng đầu trong muôn hạnh. Dù thông bác kinh sách cổ kim, danh vị tột đỉnh mà thiếu lòng hiếu kính thì đó là tinh quái đội lớp hình người. Kinh điển thánh hiền cổ kim đều khuyên lấy hiếu nghĩa làm đầu: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên.” Có nghĩa là, ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm đầu. Bởi vì:

Người tai mắt ở trong trời đất
Ai mà không cha mẹ sanh thành
Gương treo đất nghĩa trời xanh
Ở sao cho xứng phận mình làm con

Ta có mặt ở đời, ta khôn lớn nên người đều nhờ cha mẹ nuôi dưỡng bao bọc, nên kinh thi nói: “Vô phụ hà hổ, vô mẫu hà thị.” Nghĩa là, không cha thì cậy ai mà nên người, không mẹ thì nhờ ai mà nuôi nấng để được sống còn đến ngày nay. Ân nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ như trời biển, nếu người con chưa trọn báo đền, thì nghìn năm vẫn còn ân hận nơi lòng. Hãy nghe con thảo cháu hiền bùi ngùi than thở: “Thiên tải tử tâm du bảo hám, mỗi tùng thuyết hiếu thuyết ngoan ngân”. Nghìn năm lòng con còn ôm hận, mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền.

Nhà Phật đặt nặng hiếu đạo. Nên kinh Phạm-Võng Bồ-Tát-Giới nói: “Hiếu là giới, cũng là pháp chí đạo”. Do vậy mà đức Phật nói trong kinh Nhẫn-Nhục: “Thiện chi cực mạc đại ư hiếu. Ác chi cực bất hiếu giả”. Nghĩa là, không có việc lành thiện nào to lớn bằng hiếu. Không việc ác nào nặng bằng bất hiếu. Trong kinh Đại-Tập đức Phật còn xác quyết: “Thế nhược vô Phật, thiện sự phụ mẫu; Sự phụ mẫu, tức thị sự Phật”. Có nghĩa là, sanh ra đời nếu không gặp Phật mà khéo phụng dưỡng cha mẹ là tốt lắm. Khéo phụng dưỡng cha mẹ là như phụng thờ Phật rồi đó.

Có những người quên công ơn cha mẹ. Có những ác đảng dạy người phản bội ân nghĩa, làm khổ cha mẹ. Có những tôn giáo thờ tà thần ác quỷ thần linh thượng đế mê hoặc lòng người, khuyên dạy con người là do thần linh thượng đế tạo ra, cha mẹ cũng là người, nên chỉ kính thờ thần linh thượng đế là đủ. Thật là bất nhân bất nghĩa. Chúng ta thử nghĩ lại xem, có phải rõ ràng cha mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng cực nhọc, sớm ẵm, tối bồng, nuôi lớn khổ nhọc lo cho ăn học, lập thành gia thất, công lao cha mẹ không biết dường nào kể xiết! Vậy mà chẳng biết lo báo đền, lại nghe theo lời mê hoặc tà ngụy mà phụ bạc chẳng phụng thờ cha mẹ mà lại phụng thờ thần linh, sùng bái ác đảng, cúng vái quái thần viễn vông không tưởng!
Người chánh kiến đạo đức, dù thế lực áp bức, hoàn cảnh bất an, giàu sang phú quý, danh vọng dụ hoặc, vẫn một lòng chung thủy:

Vai mang đức Phật Di-Đà
Hiếu trung ta giữ, gian tà mặc ai.

Cha mẹ là bậc ân đức thực tế đã khổ cực vì ta, trực tiếp nuôi dưỡng ta, ta đã chịu ơn, mà không thương tưởng, thì thử hỏi ta còn thương tưởng ai được? Khi sa cơ lỡ vận được người cho bát nước, giúp ít tiền, ta còn biết cúi đầu cảm ơn. Đằng nầy cha mẹ trọn đời hy sinh cho mình biết bao là công của thì ta lại bảo là thần linh thượng đế nắn tạo, ác đảng bao dưỡng, thử hỏi người có chút lương tâm kiến thức nghe được chăng? Người không hiếu kính phụng thờ cha mẹ ông bà thì đối với quốc gia dân tộc đồng loại nhất định họ không có lòng thương. Họ chỉ nương dựa thế lực đồng bào để tạo thanh thế cá nhân, ra sức làm tay sai cho ngoại bang để được giàu sang danh vọng, chứ chẳng có lòng yêu nước thương dân gì!

Chẳng may gia đình xã hội quốc gia mà có hạng người như thế là tai họa cho giòng giống dân tộc đất nước. Bởi đấy là mầm mống của sự bất ổn hỗn loạn. Thế nên cổ đức từng dạy: Có hiếu mới có nghĩa, có trung, có tín. Bất hiếu thì bất nghĩa, bất trung, bất tín bất thành.

Hôm nay gặp lễ Vu-Lan thắng hội, người con thảo cháu hiền, nguyện noi gương đức Mục-Kiền-Liên tôn-giả, thanh tịnh thân tâm, phát huy năng lực, đem hết sức mình để tạo phước đức hồi hướng cho phụ mẫu cửu huyền được siêu thoát:

Hôm nay gặp lễ giải đảo huyền
Con nguyền theo gót Mục-Kiền-Liên
Chư tăng tự tứ con cầu nguyện
Mười phương phụ mẫu giải đảo huyền

HT Thích Đức Niệm




Có phản hồi đến “8. Vu Lan Báo Hiếu”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com