VẤN: Con nghe nói kinh điển của Đức Phật để truyền qua các đời đều là do sự gia hộ rất lớn của chư Thiên Long Bát Bộ, Long Thần Hộ Pháp. Mỗi một bộ kinh là đều có những chư vị khác nhau hộ trì cho nên những người trì tụng nếu đúng là kinh Phật thuyết sẽ có một năng lực rất lớn do cũng được các chư vị Bồ Tát, Long Thần Hộ Pháp gia hộ. Vậy chư Thiên Long Bát Bộ, Long Thần Hộ Pháp là ai? Có phải là các vị Phật, Bồ Tát tái sinh không? Làm thế nào để biết đâu là kinh do Phật thuyết và đâu là kinh ngụy tạo? Nếu vô tình tụng kinh ngụy tạo nhưng con tưởng là kinh Phật thì có bị mang tội không? Tại sao lại có kinh ngụy tạo? Con xin tri ân Sư rất nhiều

ĐÁP:

I . Bàn đến kinh Phật, chúng ta phải biết ý nghĩa của kinh, kinh do ai thuyết, tác dụng của kinh, khởi đầu và kết thúc như thế nào mới đúng nghĩa, để không lầm kinh do Phật thuyết hay kinh do ngụy tạo.

Trước nhất chúng ta thử tìm hiểu về “kinh”, phạm vi lời Phật thuyết giáo trong cõi ta bà suốt 49 năm, có thuyết nói 45 năm. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Phạm Hạnh, thứ 20 do Ngài Đàm Vô Sấm (265-316), đời Tây Tấn dịch từ văn Phạn ra văn Hán, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014) dịch từ văn Hán ra văn Việt, Luận Đại Trí Độ, nguyên tác Bồ tát Long Thọ, Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ văn Phạn ra văn Hán, Ngài Hòa Thượng Thích Thiện Siêu (1921-2001) dịch từ văn Hán ra văn Việt, Ngài HT Thích Thiền Tâm (1924-1992) biên soạn Kinh Điển Đạo Phật.

Ngoài ra trong Phật học từ điển của Cụ Đoàn Trung Còn (1908-1988), một học giả trứ danh của Phật giáo miền Nam, để lại một kho tàng kinh sách Phật, trong đó có bộ Từ điển Phật học, các vị đã nghiên cứu trích giảng 12 phần giáo như sau:

1/. Thứ nhứt Tu Đa La (Khế kinh)

Ngôn ngữ, những phần kinh do Đức Phật Bổn sư Thích Ca thuyết pháp cho chư đệ tử. Kinh được chia ra làm 2 phần: Thông giáo và biệt giáo

Tu đa la là tên chung của thánh điển, Đức Phật có thuyết ra các bài kinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, Tôn giả A Nan đọc lại tại đại hội kiết tập lần thứ nhất trong hang Thất La Phiệt. Kết tập Bồ tát tạng ngoài hang Thất La Phiệt. Sau đại hội gom lại kêu là Tu Đa La, Trung Hoa dịch là Khế kinh. Kinh là một trong tam tạng thánh điển: Kinh (Tu Đa La), Luật (Tỳ Nai Da), Luận (A Tỳ Đạt Ma).

Tu Đa La còn là một thể văn Trường hàng (tản văn, dài), nói thẳng pháp nghĩa trong Khế kinh, Trung hoa dịch là Pháp Bổn. Đức Phật tùy nghi thuyết pháp cho đệ tử, khi thì dùng văn thường, khi thì dùng ca kệ. Ban đầu Ngài giảng về Tiểu thừa, lần lượt thuyết chín bộ (Cửu bộ kinh). Đến chứng muốn đưa đệ tử vào đại thừa, Phật thừa, Nhứt thừa, Phật mới nói thêm ba thuyết nữa kêu chung là Thập nhị bộ kinh. Thập nhị bộ kinh là các thể lọai thuyết pháp của Phật, gọi là tam tạng thánh điển. Kinh là phần quan trọng trong Cửu bộ pháp. Mỗi phần kinh đều khởi bằng mấy chữ: "Ta nghe như vầy” và kết luận phần kinh bằng chữ: "hoan hỷ phụng hành”

Nhân nói đến phần kinh, các Bạn Phật tử cần hiểu về ý nghĩa của Kinh, gọi đủ là Khế kinh. Bao nhiêu những bộ thánh điển mà Đức Phật thuyết, Tôn giả A Nan nhớ hết và mỗi khi nghe thì tin chịu, chớ không hề nghi ngờ. Cho đến khi Đức Phật Niết Bàn, Đại hội kết tập cử Tôn giả A Nan lên pháp tòa, diễn giảng lại các khế kinh.. Khế kinh còn có nghĩa là hợp kinh, hợp với căn cơ trình độ của các hạng chúng sanh. Dù hạng cao, hạng vừa hay hạng thấp. Hạng đã tu lâu hay hạng mới tu tập, ai nghe kinh coi kinh cũng đều được lợi ích tất cả.

Bao nhiêu khế kinh do tôn giả A Nan giảng thuật, hiệp lại làm thành Kinh tạng, một bộ trong Tam Tạng (Kinh Luật Luận). Tất cả những bài khế kinh hiệp thành một thể trong 12 thể thuyết pháp của Phật, không khác với đạo lý giải thoát của Phật, nên gọi là khế lý (Từ điển Phật học Đoàn Trung Còn)

2/. Thứ hai Trùng Tụng (Kỳ Dạ):

Là một thể thuyết pháp của Phật và lập đi lập lại nhiều lần bằng kệ tụng, nên gọi là Trùng tụng. Trùng Tụng cũng gọi là Ứng Tụng.

Thường trong các thời thuyết giảng kinh của Phật bằng tản văn, dài quá làm cho các môn đệ khó nhớ, hoặc những người ở xa đến nghe pháp không kịp, hoặc để tóm một bài giảng, Đức Phật thường lập đi lập lại bằng những bài kệ, giúp cho mọi người dễ nhớ, giúp cho người nghe pháp không nhàm chán, hoặc giúp cho những ở xa mới đến được nghe lời Phật giảng bằng bài kệ tụng.

3/. Thứ ba Thọ ký:

Thọ là nhận lấy, ký là ghi nhớ, ghi chứng. Đọc trọn thành ngữ là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ký, viết tắt là Thọ ký. Thọ ký cũng có nghĩa là trao cho, sự ký chứng. Cũng gọi là Thọ biệt, khi một Đức Phật phán trước rằng về sau một vị tu hành nào đó sẽ thành Phật, hiệu là...đó kêu là Thọ ký. Như tiền thân Đức Phật Thích Ca, được Đức Nhiên Đăng cổ Phật thọ ký cho thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni thế tôn vậy.

4/. Thứ tư Kệ Đà (Kệ):

Có nghĩa là phúng tụng trì tụng Phật ngôn, kệ là những bài thi ca thường hiệp lại thành 4 câu (tứ cú kệ), tức 4 hàng, để ca tụng công đức Phật, Bồ tát. Cũng nhằm để gom lại ý của một bài kinh, của một cuộc thuyết pháp, hoặc để phô diễn lòng cảm mến, lòng tin tưởng Tam bảo.

Kệ còn là những bài trường thi, hiệp lại là cả trăm câu, để trùng tuyên giải thêm cho rộng nghĩa một bài thuyết pháp, như các bài kệ tụng trong phầm Thí dụ Kinh Pháp Hoa.

5/. Thứ năm Tự Thuyết:

Cũng gọi vô vấn tự thuyết, trong đời thuyết giáo của Phật có nhiều thời giảng, không do ai hỏi mà Đức Phật tùy cảm ứng mà thuyết. Cho nên kinh vô vấn tự thuyết Udàna còn gọi là Kinh Cảm Ứng. Theo tự điển Phật học của Cụ Đoàn Trung Còn, thì kinh mà Phật tự nhiên diễn giảng, chẳng có ai khải thỉnh, chẳng có ai thưa hỏi, gọi là Udàna

Thường thì có vị Thanh Văn hay vị Bồ tát khải thỉnh, hoặc hỏi vì ý nghĩ của mình, thì Phật mới thuyết pháp. Nhưng có khi chẳng đợi ai hỏi, Phật tự nhiên giảng giải đó gọi là tự thuyết kinh. Ví dụ như kinh A Di Đà, thuộc về kinh vô vấn tự thuyết.

6/. Thứ sáu Nhân Duyên:

Ni Đà Na danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Nhân Duyên. Đây là những kinh nhân có người thỉnh, hay nhân có duyên chi Phật mới nói ra, hoặc nói về nhân duyên gặp Phật nghe pháp, những chỗ có nhân duyên hóa độ, hay nói về duyên khởi của vũ trụ và nhân lọai.

7/. Thứ bảy Thí dụ:

A Ba Đà Na, tức là Kinh Thí Dụ. Pháp của Phật nói ra rất mầu nhiệm, người độn căn khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi giảng dạy Ðức Như-Lai phải dùng những thí dụ cho thính chúng dễ hiểu. Đại khái như những lời thí dụ trong các Kinh điển

Là những tích xưa có thật (sử), hoặc đặt ra (ngụ ngôn) cùng là một thể so sánh do Đức Phật thuật lại để giúp cho moi người thấu hiểu đạo lý cao siêu, hoặc để cho người mới tu tập tỉnh ngộ.

8/. Thứ tám Bản Sự kinh (Như thị Pháp Hiện):

Là những kinh văn Phật nói chỗ tu nhân của các vị Bồ-Tát, đệ tử về đời quá khứ, hoặc những ngôn giáo, sự nghĩa liên quan với đời trước. Thí dụ như đoạn: “Nầy các Tỷ-kheo! Pháp của ta nói hôm nay gọi là Giới kinh, đời Phật Câu Lưu Tôn gọi là Cam Lồ Cổ, đời Phật Câu Na Hàm Mâu Ni gọi là Pháp Cảnh, đời Phật Ca Diếp gọi là Biệt Không”. Kinh Bản Sự là một thể lọai trong 9 thể lọai kinh của Tiểu Thừa, một trong 12 thể lọai của Đại thừa.

Kinh có 7 quyển do Ngài Huyền Trang dịch vào năm 650 được xếp vào Đại chánh tạng, tập 17.

Kinh Bản Sự có nội dung rất gần giống với những kinh thuộc thể lọai như thị ngữ trong tạng Pali hiện còn. Trong tạng Pali nầy gồm có 4 thiên và 112 kinh thuộc thể lọai như thị ngữ, ít hơn 26 kinh do với kinh Bản Sự. Phần nhiều các học giả hiện đại đều suy đoán Kinh Bản Sự và những kinh thuộc thể lọai như thị ngữ trong tạng Pali đều có cùng một nguồn gốc. Riêng nội dung kinh Bản Sự do Ngài Huyền Trang dịch đều lấy thể lọai như thị ngữ xuyên suốt từ đầu đến cuối mỗi kinh mà không bao gồm một câu truyện Bản Sanh nào (Phật học từ điển Huệ Quang, trang 296-297 )

9/. Thứ chín Bản Sanh kinh:

Là phần lớn nhất của Tiểu bộ kinh, gồm 547 bài. Kinh này kể lại sự tích, các tiền kiếp của Phật Thích Ca, nói về các đệ tử và những người chống đối Phật và chỉ rõ các nghiệp đời trước đóng vai trò thế nào trong đời này.

Bản sanh là 1 trong 9 thể lọai kinh (phân theo hệ tiều thừa) và 12 thể lọai kinh (phân theo hệ đại thừa), kinh thứ 10 trong 15 kinh của Tiểu bộ Kinh, thuộc hệ kinh tạng Pali. Trong đó kinh thứ 10 gom chép sự tích bản sanh, thuật lại việc Phật Thích Ca thị hiện thân như Quốc Vương, Thầy Bà La Môn, lái buôn và thân các lòai động vật như: voi, khỉ, nai, gấu.v.v..hoặc để cứu độ chúng sanh, hoặc vì cầu pháp mà tinh tấn làm các công đức thiện nghiệp. Toàn bô viết bằng văn xuôi hoặc văn vần. Kinh nầy chia làm 22 tập, 547 bài tùy theo độ ngắn dài của các thiên hoặc số kệ nhiều hay ít các bài, trong đó từ tập 1 đến tập 8 có lập tên phẩm riêng.

Trong kinh nầy có nhiều truyện tinh thần hy sinh của thánh hiền, tiền thân Phật. Phải chăng giáo nghĩa lợi tha của Phật giáo đại thừa đã bắt nguồn từ đây và 6 pháp ba la mật cũng do những câu truyện bản sanh nầy phân lọai mà tổ chức thành những hạnh Bồ tát lợi tha.

Kinh Bản sanh bằng tiếng Pali có lẽ được chép thành sách vào khỏang thế kỷ III trước tây lịch, không rõ tên tác giả. Có thuyết cho rằng, người thời ấy lấy những tích đương thời làm nền tảng, rồi dung nhập với màu sắc Phật giáo mà chép thành (trích Phật học từ điển Huệ Quang, trang 294)

10/. Thứ mười Phương Quảng;

Tỳ Phật Lược, danh từ nầy, Trung Hoa dịch là Phương Quảng. Đây là những kinh Đại thừa Phương Đẳng, nội dung hàm nghĩa lý cao siêu, hạnh tu bình đẳng, nghĩa lý sâu mầu, rộng rãi như mười phương hư không. Phương là chữ nghĩa, ngôn ngữ chơn chánh, Quảng là nghĩa lý rộng rãi vô biên; như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Tập, Kinh Bảo Tích, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội, Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân (tự điển Phật học Đoàn Trung Còn)

11/. Thứ mười một Hy pháp:

A Tỳ Đạt Ma, danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Vị Tằng Hữu hoặc Hy pháp, tức là pháp hiếm có, ít nói ra cho đại chúng nghe. Đây là kinh văn nói về những thần lực, những nghiệp duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng, ít có, mà trí phàm phu khó tin hiểu. Như kinh Đại Niết Bàn nói: “Thế nào là pháp Vị Tằng Hữu? Như Bồ Tát khi mới sanh ra, không người nâng đỡ mà tự đi bảy bước, phóng đại quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát mật cúng dường Như Lai. Như con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp. Như Thiên ma Ba Tuần biến làm con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành, khiến cho các bát va chạm nhau mà không sứt bể. Và cũng như Bồ Tát khi mới sanh được đưa vào miếu thờ thiên thần, các thiên tượng đều đứng lên lễ kỉnh”.

12/. Thứ mười hai Luận nghị

Ưu Bà Đề Xá danh từ nầy có nghĩa Luận nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp biện luận, hoặc phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du Già nói: “Thế nào là Luận Nghị? Đây là tất cả đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng sâu của Tô Đát Lãm, tuyên dương tông yếu của các kinh”. (Kinh điển Đạo Phật của HT Thích Thiền Tâm)

Vì sao kinh chia thành 12 phần giáo?

Mười hai phần giáo như trên gọp chung lại gọi là “Kinh”, trong đó phần giáo thứ 12 còn gọi là luận nghị. Luận là nói, đàm luận lời dạy của Phật, nói với nhau qua những ý nghĩ sâu mầu, uyên bác. Chư vị Tổ sư là những người đắc đạo, là những nhà hoc Phật uyên thâm, thường gặp nhau trong chốn thâm sơn cùng cốc luận đàm kinh Phật cho ra nghĩa lý sâu mầu mà truyền giáo cho chúng sanh học hỏi. Các Ngài cũng thường gặp nhau trên văn đàn, trao đổi những kiến thức những kinh nghiệm trải qua các thời giáo hóa của Phật, các bậc tiên đức và bản thân mà suy luận thành những bài luận đặc sắc sâu mầu vi diệu để giáo hóa chúng sanh cho phù hợp, như Thắng Pháp Yếu Luận, Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận, Thành Thật Luận, Câu Xá Luận...

Trong đời thuyết giáo Đức Phật tại quê hương rộng lớn và huyền bí của Ngài có nhiều thành phần đệ tử quy y: trí thức như Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na, giàu có như Da Xá, Cấp Cô Độc, người tôn giáo khác như Ca Diếp, ít học như Ưu Ba Ly, Châu Lợi Bàn Đặc, trẻ như La Hầu La, Nan Đà, nghèo hèn như Ưu Đà Di, người ác như Ương Quật Ma La, nhẫn đến trong giáo đoàn của Ngài còn thu phục nhiều thành phần, ngọai đạo, chúng sanh ở thế giới khác, chúng sanh hai hình, không hình, nhơn phi nhơn... nên trong mỗi thời thuyết giáo lúc nào Ngài cũng đem đến cho chúng sanh một bức thông điệp mới lạ, ý thức mới, luôn có sự vươn lên tầm cao, nhằm để cho các vị để tử dễ dàng tiếp thu, giác ngộ tu hành giải thoát sanh tử luân hồi. Từ đó có nơi Phật nói pháp bằng thi kệ, có nơi Phật nói thành một tản văn lớn thành kinh bộ, có nơi chỉ nói 4 câu kệ, một bài kinh ngắn...đại chúng nghe liền giác ngộ tu hành không thối đạo tâm.

Như trên đã nói, Pháp âm của Phật rất mầu nhiệm, nhưng tam tạng thánh điển mới chỉ được tuyên lưu trong hành tinh địa cầu, trong khi phạm vi giáo hóa của Phật là thế giới ta bà, tức là còn có nhiều chủng lọai chúng sanh trong hằng hà sa số hành tinh khác nữa trong thế giới ta bà. Như vậy tiếng pháp âm luôn luôn được thay đổi thành vô lượng nghĩa để diễn dương vi diệu pháp trong khắp mười phương ba đời.

Mười hai (12) thời giáo Phật khẩu tuyên

Đại thừa phương tiện thuở sanh tiền

Chín (9) giáo đưa người về bến giác

Giữ gìn chơn lý bổn thủy nguyên

II . Long Thiên Bát bộ, Long thần hộ pháp

Nói cho đúng là Thiên Long Bát bộ, trong các kinh bộ Phật thường nhắc đến tám bộ Thiên, Long, Dạ xoa, Càn Thát bà, A tu la, Ca Lầu la, Khẩn Na la, Ma Hầu La già, là những thiên thần có những vị tướng đẹp, có những vị tướng xấu, nanh gút, đen đúa xấu xí nhưng tâm các vị rất tốt, các vị phát tâm quy y Phật bảo, Pháp bảo và hộ trì Phật pháp, khiến cho chánh pháp nhiệm mầu được phát triển, trường tồn, bất hoại.

Trong tám bộ, được phân ra thành hai, gồm chư Thiên và chư Thần. Do bộ Thiên, Long đứng đầu nên gọi là Thiên Long Bát Bộ

Thiên long bát bộ (Thiên Long Bát Bộ - trích Diễn Đàn Phật Pháp & tự điển Phật học của Đoàn Trung Còn)

Là tám bộ chúng sanh trong các kinh bộ Đại Thừa nói đến, các vị hay đến nghe pháp, khi đức Phật giảng kinh tại các pháp hội. Trong 8 bộ thì có 6 bộ là Thiên, Nhơn, A tu la, Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nằm trong lục đạo chúng sanh. Còn lại 2 bộ là bộ Long sống ở biển, bộ Dạ xoa sống trên mặt đất, lưng chừng hư không các từng trời thuộc Dục giới.

Chúng ta tìm hiểu về trú xứ của 8 vị chư Thiên, chư Thần:

1/. Thiên: gồm các chúng sanh trong sáu tầng trời Dục giới , bốn tầng Sơ thiền , Nhị thiền , Tam thiền , Tứ thiền ở Sắc giới, các vị thường đến nghe pháp. Mỗi tầng trời có một vị Thiên chủ làm thượng thủ hường dẫn chư Thiên chúng hộ trì chánh pháp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

2/. Long: là rồng, loài chúng sanh sống ở dưới biển. Thượng thủ của loài này là Long Vương. Theo truyền thuyết ở Ấn Độ thì Bồ tát Long Thọ (năm 150 tây lịch) là một Luận sư nổi tiếng, được Long vương đưa xuống biển để truyền pháp Mật Tông một thời gian, nên hiệu ngài là Long Thọ

Long hay rồng là một loại chúng sanh có thần thông … .Chúng ta không thể nhìn thấy họ, họ ở một cảnh giới khác chúng ta, Long là rồng hay thần rồng vậy

3/. Dạ xoa:  Một loài quỷ thân hình xấu xí, ghê sợ. Có ba loài Dạ xoa, loài sống trên mặt đất, loài sống trong hư không và loài sống trên các cõi trời.

Kinh Phật cho biết loài quỷ dạ xoa thường rất độc ác, nhưng một khi đã quy y Phật trở thành hiền lành và ủng hộ người thiện lành, người tụng Kinh Phật, như trong Kinh “Như Lai bổn nguyện công đức” có nói tới 12 thần dạ xoa ủng hộ che chở người tụng kinh Dược Sư. Kinh sách cho chúng ta biết , có loại dạ xoa theo hầu Tỳ Sa Môn Thiên Vương (vị Thiên vương trị vì Phương bắc , một trong số bốn vị Thiên Vương ở cõi trời Tứ Thiên Vương )

Sách Thiền Uyển Tập Anh có chép sự tích Thiền sư Khuông Việt, đời Tiền Lê, đến núi Vệ Linh nằm mộng thấy một vị thần mặc áo giáp vàng, một tay cầm thương vàng, một tay nâng một bảo tháp. Theo hầu vị thần này có hai mươi người diện mạo hung ác dữ tợn. Thần nói: “Ta là Tỳ sa Môn Thiên Vương, bộ hạ theo ta đều là Dạ xoa. Trời Đế Thích sai ta đến xứ này bảo vệ biên giới Đại Cổ Việt, để cho Phật pháp được hưng thạnh."

4/. Càn Thát Bà: Càn Thát Bà là vị thần thường xuyên theo hầu vua loài trời là Đế Thích (Indra) để tấu nhạc. Một tên khác là Hương thần. Vị thần này nuôi mình bằng mùi hương và thân hình tỏa ra hương cho nên goi là Hương thần hay Hương ấm thần. Cũng có sách ghi rằng thần Càn Thát Bà là thần có nhiệm vụ giữ gìn rượu thần cho chư Thiên, đồng thời lại là một danh y vì rượu thần là vị thuốc thần diệu, có thể chữa trăm bệnh

5/. A tu la: Họ có dáng điệu dữ tợn xấu xí và hay gây chiến với chư Thiên và trong những cuộc chiến như vậy, có lúc họ thắng, có lúc thua. A Tu La có nhiều loại, được phân biệt theo hình thức sanh thân. Có loại sanh ra từ trứng, có loại sanh ra từ bào thai như loài người, có loại sanh ra từ các nơi ẩm thấp, cũng có loại hóa sanh. Có sách nói: loài A Tu La sống ở dưới biển phía Bắc núi Tu Di. Loại thấp kém nhất sống ở hang động thuộc dãy núi ở phía Tây núi Tu Di.

6/. Ca Lâu La Chim thần đứng đầu loài có cánh, kẻ thù của loài rắn. Theo Ấn Độ giáo, thần Vishnou thường cưỡi chim Garuda này.

7/. Khẩn na la: Nửa giống người, nửa giống thần. Người không phải người. tức phi nhân. Một hạng chúng sanh có tài tấu nhạc, thường tấu nhạc Pháp, tấu những bài nhạc về đạo lý.

Khẩn na la cũng là một trong Tám bộ chúng sanh, Thiên long bát bộ thường hầu theo nghe Pháp một cách cung kính mỗi khi Phật giảng Kinh Đại Thừa. Hồi Đức Phật Thích Ca giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có bốn vị vua Khẩn na la đến hầu nghe Pháp, có dắt theo cả trăm ngàn quyến thuộc trong loài Khẩn na la. Bốn vị vua ấy là: Pháp Khẩn na la vương, Diệu pháp Khẩn na la vương, Đại Pháp Khẩn na la vương, Trì Pháp Khẩn na la vương

8/. Ma Hầu La Già :

Cũng gọi Ma hộ la nga, Hán dịch: Đại mãng xà, Quỉ thần đầu rắn, mình người, là 1 trong 8 bộ Thiên Long. Theo Duy Ma kinh lược sớ quyển 2, thì Ma Hầu La Già là vị thần không có chân, đi bằng bụng như loài bò sát. Khi làm người, vì phá hủy giới cấm, dối trá, nhiều sân hận, ít bố thí, tham ưa rượu thịt, nên sau khi chết, bị rơi vào đường quỷ thần. Tuệ Lâm Âm Nghĩa quyển 11 thì cho rằng, Ma Hầu La Già là loại thần âm nhạc, có hình đầu rắn.

Trách nhiệm chư Thiên, chư Thần, Hộ pháp:

Tụng, đọc, nghiên cứu qua kinh Phật, chúng ta thấy dù kinh theo thể lọai tản văn, thi kệ, tứ cú kệ, trường hàng...kinh nào cũng có nhắc đến Thiên Long Bát bộ, Hộ pháp đến hộ trì nghe pháp là một chúng trong nhiều chúng của Pháp hội. Tất cả tám loại chúng sanh này thường đến nghe Pháp, hộ Pháp cho giáo pháp Phật được tuyên lưu, đồng thời các vị cũng có khả năng tu tĩnh thành Phật

Trong kinh Bi Hoa nói ngài Phạm chí Bảo Hải đã khuyên bảo được các loại chúng sanh này trong khắp Đại thiên thế giới, họ đều phát tâm Bồ Đề. Long nữ là con gái của Long Vương nhờ sự giáo hóa của Bồ tát Văn Thù cũng đã chuyển kiếp thành Phật (Kinh Pháp Hoa - Phẩm Đề Bà Đạt Đa)

Qua sự hộ trì của Thiên Long Bát Bộ, chúng ta thấy Phật có nhiều phương tiện thuyết giáo, chúng sanh thì có hữu hình vô hình, hữu tình hay vô tình nhiều cung, nhiều cõi cũng đến tiếp nhận tu hành dưới mọi hình thức: “nghe pháp là học Phật bằng tai, hộ trì Phật pháp là học Phật bằng ý, lễ bái, bảo vệ giáo pháp là học Phật bằng thân, tụng giáo pháp Phật là học Phật bằng miệng, chiêm ngưỡng Phật là học Phật bằng mắt.v.v..”.

Theo hệ thống kinh Phật, dù là đại thừa hay tiểu thừa, thì trong mỗi thời thuyết giáo của Phật đều có chư Thiên Long Bát bộ phát nguyện đến hộ trì, nghe pháp cùng với chư Đại Bồ tát, chư Đại Tỳ kheo, vua quan tể tướng, nam nữ cư sĩ, chúng sanh có mang thân, chúng sanh không mang thân tứ đại. Nhứt là trong những thời pháp Phật nói ở Linh Thứu Sơn, ở Tịnh xá Kỳ Viên kinh đô Xá Vệ, ở Tịnh xá Trúc Lâm, xứ Ma Kiệt Đà...Khi Phật nói pháp vừa xong tất cả đều hoan hỷ phụng hành, nên có bài xưng tán Thiên Long Bát bộ

Trời, A-tu-la, Dạ xoa thảy

Đến nghe pháp đó nên chí tâm

Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn

Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.

Bao nhiêu người nghe đến chốn này

Hoặc trên đất liền hoặc hư không

Thường với người đời sanh lòng từ

Ngày đêm tự mình nương pháp ở.

Nguyện các thế giới thường an ổn

Phước trí vô biên lợi quần sanh

Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ

Xa lìa các khổ về viên tịch.

Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng

Thường trì định phục để giúp thân

Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm

Tùy theo chỗ ở thường an lạc.

Nam mô Tam châu cảm ứng

Hộ Pháp Vi đà Tôn Thiên Bồ Tát ma ha tát.

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Pháp sư Công đức, Phật dạy "hành giả tung kinh, giảng kinh, dịch kinh, tả kinh, nghe giảng kinh...tất cả đều là Pháp sư, đều được Long Thiên Hộ pháp lai hộ trì, khiến cho mọi loài không đến phá hoại người trì tụng kinh Pháp Hoa...”

Không có Kinh ngụy tạo?

Không có Kinh ngụy tạo, mà chỉ có người tạo ra những ý tưởng không chánh đáng, tư duy không chuẩn, hiểu kinh Phật mù mờ rồi giảng sai sự thật, tạo thêm những ý tưởng mới làm cho quần chúng hoang mang, không biết đâu là thật đâu là giả, đâu là chánh hay tà . Cũng may thay Phật giáo Việt Nam có các Bộ từ điển Phật học của HT Thích Minh Châu, từ điển Phật học của Cụ Đoàn Trung Còn, từ điển Phật học Huệ Quang, sách Phật các bậc cao đức, có đẳng bậc tu hành tu chứng biên sọan vừa cung cấp kiến thức cho Tăng Ni, Phật tử nghiên cứu học Phật giảm nghi ngờ, cũng vừa làm tăng trưởng trí thức các nhà học Phật đơn phương, các nhà Phật học kế thừa biên sọan sách Phật

Dùng từ ngữ “kinh ngụy tạo”, là do những người thiếu chánh kiến, ý kiến lệch lạc, bảo thủ áp đặt tai tiếng đối với những nhà học Phật, những nhà biên sọan sách Phật, những nhà giảng giải kinh sách Phật, còn có ý kiến tranh chấp thật tai hại nhiều lắm! Như đã nói trên, Pháp âm của Phật luôn được phổ biến khắp sơn hà đại địa trong mười phương. Ở mỗi thế giới, mỗi chúng sanh nghiệp lực có khác nhau, nhưng ý chí tâm linh không khác. Nghiệp lực của chúng sanh nhìn giáo pháp Đức Phật qua nhiều quan điểm theo nghiệp lực của mình mà tu hành tiến đến cứu cánh thành Phật...từ đó trí tuệ, kiến thức của mỗi chúng sanh có nhơn duyên với kinh Phật qua học thuật, văn hóa của chúng sanh thế giới đó.

Ngọai đạo thì không ngụy tạo kinh Phật, tín ngưỡng dân gian có kinh riêng, các giáo phái khác có kinh riêng, người lợi dụng Phật giáo cũng không ngụy tạo được kinh Phật. Riêng trong nội bộ chúng ta không nên dùng từ “kinh ngụy tạo”, hay “ngụy tạo kinh” mà áp đặt cho sự tín ngưỡng của từng thành phần, từng bộ phận môn phong pháp phái trong đại chúng con Phật. Thời mạt pháp, ai dám nhận định Kinh của Phật của Tổ là “kinh ngụy tạo”?.

Xác định Kinh Phật

Mở đầu kinh Phật có câu : "ta nghe như vầy” và khi kết thúc bài kinh có câu “hoan hỷ tín thọ phụng hành”, lời kinh làm cho tâm ta an lạc, thực hành theo kinh được giải thoát, tụng kinh không có nghi ngờ đó là Kinh Phật hay ngụy tạo, tụng kinh tham sân si dứt sạch, kinh đó là Kinh Phật. Ngoài ra các kinh khác thuộc tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng địa phương...không có kinh ngụy tạo.

Theo tác giả Thích Lệ Thọ trong một bài viết trên Thư Viện Hoa Sen đã nhận định: " ...Phật giáo Việt Nam lại chưa có một quyển “Đạo Phật Tự Điển Anh-Việt” nên phải vay mượn từ những quyển tự điển thông dụng, cho nên khi tra từ “Apocrypha” vào hầu hết các quyển Anh Việt tự điển thông dụng thì chỉ có nghĩa “kinh ngụy tác”. Dựa trên nghĩa này, một ít Học giả, Giảng sư mạnh dạn phán một câu “xanh dờn” kinh điển ngụy tạo! Nói như thế, có nghĩa là chúng ta đã đánh đổ toàn bộ hệ thống giáo lý Đại Thừa, vì được kiết tập sau khi đức Phật nhập Vô dư y Niết Bàn khoảng 200 năm, thậm chí như quyển kinh Vu Lan Báo Hiếu, mới ra đời khoảng 150 năm trở lại đây. Nhưng đâu có một ai dám cho bản kinh đó là không có giá trị!...”

Bạn ơi! Đã từ xa xưa vào thế kỷ thứ V, trước tây lịch, sau Phật nhập diêt mới 7 ngày thì đã có 2 cuộc kết tập đồng tổ chức, một là ở trong hang Thất La Phiệt, Thanh văn kết tập, hai là ngoài hang Thất La Phiệt, Bồ tát kết tập (Nhị khóa hiệp giải-Pháp Chủ HT Thích Khánh Anh biên soạn) dĩ nhiên sự kết tập phải có khác nhau về ngôn ngữ, về hình thức, về ý tưởng, ý tưởng thủ cựu, ý tưởng tiến bộ, huống chi Pháp giáo Phật truyền đi cho đến trên 2500 năm nay thì biết bao nhiêu sự việc ảnh hưởng bởi sắc màu dân tộc, chủ nghĩa, kinh tế đời sống, môi trường, hoàn cảnh luôn đổi thay thì làm gì không có những thay đổi trong văn đàn các quốc gia có mặt Đạo Phật truyền giáo. Trong thế giới văn học Phật giáo, khi Phật giáo ra khỏi biên thùy Ấn Độ được chia thành hai bộ phái Đại chúng bộ chấp nhận cho người nữ xuất gia, ăn chay trường, Thượng tọa bộ, không chấp nhận cho người nữ xuất gia thọ tam tinh nhục, ở Việt Nam còn có Bộ phái Khất sĩ gọi là Trung thừa, nam nữ đều được xuất gia, không đi dép, không che dù, ngoài ra còn có các tông phái như Thiền tông tu thiền, Tịnh độ tông niệm Phật, Luật tông giữ giới, Mật tông niệm chú, mỗi một tông phái, bộ phái đều có cương lãnh đường lối sách vở biệt truyền, chẳng lẽ chư vị Tổ sư khai sơn, lập môn phái dẫn đạo theo sự biệt truyền đó là ngụy tạo hay sao?

Phật dạy: Giáo pháp Phật tuy phương tiện vũ hành, đa dạng phong phú, nhưng chỉ có một tiêu chí duy nhứt là “giải thoát”, ví như nước biển mênh mông vô tận nhưng chỉ có một vị duy nhứt là vị “mặn” mà thôi.

Làm Phật tử tụng kinh Phật, khi khai khóa lễ, nên rước Thầy Bổn sư đến chủ trì cho Phật tử tụng niệm, sẽ không còn nghi ngờ kinh thuộc chánh pháp hay “kinh ngụy tao”

Kinh nào cũng của Phật tuyên

Không nên nhận định cơ huyền ra sao

Khi chưa đắc đạo bậc nào

Đừng đem pháp luận lý, cao, ngụy, tà.

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Thiên Long Bát Bộ Long Thần Hộ Pháp Là Ai? Làm Thế Nào Để Phân Biệt Kinh Phật Và Kinh Ngụy Tạo?”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com