Mục Lục
Nếu như không thường kiểm tra tâm mình, đâu thể chiến thắng những tâm ma tham, sân, si?
Do đó, kiểm tra tâm mình, thực tại là công khóa phải làm hằng ngày của chúng ta.
Tiên sinh Trần Lý An, Tiền giám sát viện trưởng là một Phật giáo đồ thuần thành, tôi từng ủng hộ ông ta tranh cử Tổng thống. Ông thường giảng Phật pháp trên đài tiếng Hán, chủ đề “Kiểm tra tâm của mình”. Câu này gây ấn tượng sâu sắc đối với tôi, vì tôi suốt đời ở ngay trong “kiểm tra tâm chính mình” mà có được vô hạn trưởng thành.
Người bây giờ mắc bệnh phải đến bệnh viện “kiểm tra” thân thể, nhà cửa dột nước phải kiếm người chống dột đến “kiểm tra”, xe hư phải đưa đến ga ra “kiểm tra”, cơ khí không chạy phải mời thợ cơ giới đến “kiểm tra”. Mục đích chủ yếu của “kiểm tra” là phát hiện bệnh ở chỗ nào, mới có thể cải tiến, đến như nội tâm của ta mắc bệnh đã nhiều, nếu không thường kiểm tra, sao có thể chiến thắng những tâm ma phiền não, tham, sân, ngu si, kiêu, mạn, tật đố…? Do đó, thường kiểm tra tâm mình, thực tại là công khóa phải làm hằng ngày của chúng ta.
Thường thường có một số học sinh đến tìm tôi, bày tỏ những phiền não của họ, tôi đều bảo:
- Trước hết con hãy kiểm tra tâm chính mình.
Đối phương lại nói:
- Người khác coi thường con, con kiểm tra tâm mình dùng làm gì?
Có đồ chúng cứ không cách nào ở yên, tôi cũng nói:
- Trước hết ông phải kiểm tra tâm của mình.
Họ trả lời:
- Thầy không bảo con hiểu rõ hoàn cảnh thế nào, biết người việc cho rõ ràng, lại bảo con kiểm tra tâm mình để làm gì?
Bọn họ không hiểu rằng cần phải kiểm tra tâm của mình, sẽ cho mình một cơ hội chấn chỉnh bản thân để có thể xử thế được trôi tròn. Nhưng vấn đề là thường thường người ta không chịu nhận lỗi, mà trên sự thật, lỗi lầm của người thì rất là nhiều, như ngu muội, thủ lợi, chấp trước, thành kiến, so đo… Chỉ vì không chịu kiểm tra tâm mình, do đó mới không cách nào an tâm. Đây thật giống như xe hơi, máy bay bản thân có vấn đề, mà anh không chịu kiểm tra vấn đề hiện có, không chịu sửa chữa chỗ hư, trên sự thật xe hơi "đề" không nổ, phi cơ cũng không cách gì bay lên trời được, anh lại làm gì được?
Gần đây nhất, có một đồ chúng thỉnh tôi chỉ dạy, vì anh ta ở phân viện đạo tràng khác làm việc không được, tâm lý rất khổ não, tôi bảo anh ta:
- Đây là vì con không “kiểm tra tâm của mình” do đó không hiểu rõ được vấn đề của mình, cũng không biết rõ mình sai chỗ nào, không biết rõ sự tận tình khuyên bảo của Thầy, đương nhiên sự hiểu rõ Phật pháp lại là việc bàn chẳng nổi.
Chúng ta nên tự hỏi mình một câu trước: “Chúng ta có hiểu rõ trong tâm mình có gì không?”. Phật giáo nói “Trong tâm có Phật”, nhưng Phật trong tâm anh có phát huy tác dụng không? Ngay lúc giặc trộm trong thân làm trái gây thù, anh có bắt được nó chăng? Ngay lúc nước trong hồ tâm bẩn thỉu quá thể, anh có biện pháp làm sạch nó không? Ngay lúc ma quân tham sân si cướp bóc pháp tài trong tâm mình, anh có vũ khí giới định tuệ để chiến thắng chúng không? Ngay lúc khỉ vượn trong tâm nhảy nhót không dừng, anh có dây nhợ ngũ căn ngũ lực để trói chặt nó không? Sở dĩ các thiền sư trong quá khứ đã giảng “minh tâm kiến tánh” là rất có đạo lý, vì có tâm, tâm không sáng như gương bị phủ tro bụi, không thể nhìn rõ thực tướng; có Phật tánh, thấy không được Phật tánh, giống như vàng ròng chôn trong bùn cát, không cách gì làm chói mắt.
Năm 1953, tôi thành lập "Phật giáo ca vịnh" ở Nghi Lan, thường đem họ ra ngoài hoằng pháp, trong đó có một đội viên tốt nghiệp ở học viện Quốc Lập Âm Nhạc, thanh âm và khí chất của cô ta đều rất tốt. Có lần, cô ta không theo kế hoạch dự định thời hoằng pháp của tôi, đến giờ đổi một bài ca khác. Lúc đó tôi quá sức giận, lập tức hạ lệnh cho cô ta trở về. Nhưng đến tối lúc sắp đi ngủ, tôi “kiểm tra lại tâm mình”, lại thầm thầm tự trách, vì cô ta tuy chẳng giữ sự ràng buộc của đoàn đội, cố nhiên phải bị trách cứ, nhưng tôi cũng không nên chấp trước cứng cỏi thái quá. Có nhiều sự tình, nếu như một hòa hai sai không nhiều, đây và kia có lúc có thể thay thế, không nhất định chấp một bỏ hai, phải thế này, không được thế kia; nếu không, không những làm cho người khác không có không gian cứu vãn, cũng khiến mình bị ép vào chỗ chết, thật là khổ làm sao!
Hơn ba mươi năm trước, tôi thiết lập tinh xá Phổ Môn ở Tân Bắc, có một tín đồ phát tâm, đem theo một bé gái học Ấu trĩ viện, đến nấu cơm giúp tôi. Một hôm, cô ta đi mua thức ăn, vừa ra khỏi cửa không lâu, con gái nhỏ của cô ta khóc “oa, oa” lên, có đến một hai phút. Mắt thấy một ngôi Phật đường yên tĩnh trang nghiêm bị tiếng khóc của nó phá vỡ, tôi cầm gậy đến làm bộ đánh nó, một mặt mắng: “Mày dám khóc hả!” Nó lập tức nín ngay, mở to mắt nhìn tôi, làm tôi ngược lại bất an. Tôi ngay đó “kiểm tra tâm mình”, nghĩ đến nó tuổi còn nhỏ, thấy mẹ nó bỏ nó mà đi, khóc là vũ khí duy nhất để kêu đòi, mà tôi là người lớn lại dùng uy thế của cây gậy để áp bức nó, nói gì đi nữa cũng không đúng. Do đó về sau, ngay lúc tôi gặp tình huống tương tợ, bèn biết dùng tâm khoan dung mà nhìn sự khóc lóc ồn náo, dùng lời lẽ an ủi vỗ về thay thế trách mắng.
Hơn ba mươi năm trước, lúc mới xây dựng Phật Quang Sơn, thâu nhận nhiều Sa-di, họ mười phần nghịch ngợm phá phách, thầy giáo ai cũng đau đầu đau óc, tôi cũng từng nghĩ dùng phương thức nghiêm phạt, nhưng nghĩ lại chính mình lúc làm Sa-di, chẳng lẽ lại không nghịch ngợm phá phách sao? Chỉ là giáo dục tùng lâm lúc ấy lấy vô lý đối lại hữu lý, cứ dùng đánh mắng để áp chế tâm lười biếng chậm chạp của học Tăng, tuy nói những việc ấy có thể thành tựu đạo nghiệp của tôi, nhưng có bao nhiêu người được như thế? Từ xưa đến nay, tâm trẻ con rốt cuộc là ngây thơ hồn nhiên, mà hiện tại thời đại không đồng, tôi chẳng thể dùng tâm “con dâu nhiều năm chịu đựng thành bà gia” để đối đãi người khác. Sau khi “kiểm tra tâm mình" rồi , tôi chẳng những hiểu rõ tâm tình của Sa-di hơn các thầy khác, để tùy thuận dung thông. Ngay cho là học sinh đã lớn phạm lỗi, chỉ cần không phải lỗi lầm ác độc ngược với tình lý thái quá, tôi đều có thể dùng sự rộng lượng bao dung mà tiếp nhận, sau đó mới giáo dục bằng cách từ từ dạy dỗ khéo cho bọn họ.
Lúc chùa Tây Lai ở Mỹ sắp khánh thành, tôi từ Đài Loan xa xôi qua tham gia, thấy bọn đệ tử ào ào như ong hớn hở đi ăn "pi-za", "han-bao" trong lòng rất bực bội, do đó đã nghiêm minh cấm chỉ trong một lần đồ chúng họp hội nghị, nhưng nghe nói lại có người lén mua ăn, tôi biết đây là tôi không đúng, vì ở nước Mỹ, làm sao có thể không ăn thức ăn của Mỹ? Về sau, có một lần tôi đến Mỹ hoằng pháp, trước khi lên đường, đồ chúng Nghi Lan cúng tôi một hộp sữa đậu hũ tự chế, tôi mang theo nó đến Mỹ, mỗi lần khi mời khách, bèn cầm ra làm món ăn dặm, kết quả vèo một cái hết trơn, so với mấy món ăn tinh tế ngon lành đặc biệt trên bàn lại được hoan nghinh hơn. Tôi bắt đầu kiểm tra tâm mình, nghĩ lại mình ở Nghi Lan mấy mươi năm, cũng chẳng hoan hỷ những món dưa cải, bánh mè, bánh cam, bánh mè nướng…, về sau mắc bệnh tiểu đường, biết rõ không thể ăn ngọt, và dưa muối quá mặn, nhưng có lúc lại cứ theo đó ăn. Hiện tại đồ chúng đến quốc gia Âu Mỹ, thích thú những món ăn kiểu Tây, cũng chẳng phải là việc đáng trách lắm, hà tất phải đòi hỏi nghiêm khắc như thế? Qua lần chuyển niệm này, sau chỉ cần không phải là tham ăn quá phận lắm, tôi đều lờ đi giả vờ không thấy. Về sau khi khai hội ở Mỹ, tôi lại đem "pi-za", "han-bao" làm món điểm tâm chiêu đãi nhân sĩ dự hội, mọi người mừng rỡ nói tôi rất thông đạt sự lý nhân tình, kỳ thực đây đều là cảm tưởng do một phen “kiểm tra lại tâm mình”, đem tâm so sánh tâm mà được.
Đối với một số người đem món ăn chay chế giống như món mặn, tôi cũng từng có lần rất khó chịu, cho rằng ăn chay là để nuôi lớn tâm từ bi, nếu như đem tâm lý ăn mặn để ăn chay, thì không rốt ráo. Do đó tôi mỗi lần trông thấy trên bàn có gà chay, vịt chay, cá chay, thịt chay, thịt quay chay, cóc lóc chay… đều một mực không ăn. Nhưng có một hôm, tôi thấy tín đồ có vẻ ưa ăn không thôi, đột nhiên nghĩ ra: Người mới vào cửa Phật, trong nhất thời không cách gì sửa trừ tập khí cũ, do đó có nhu yếu này. Chỉ cần trong tâm của chính mình không có gà vịt, thịt cá là tốt rồi, hà tất phải chán ghét ư? Có một lần tôi tiếp bác sĩ Kim, người kiểm tra Bối Nhĩ Tưởng đến Đài Trung thăm Chủ tịch tỉnh Lâm Dương Cảng. Lâm chủ tịch đặc biệt bày một bàn tiệc đãi bác sĩ Kim. Tôi cũng có hai dãy thức ăn chay trên cùng bàn. Nếu như tôi cứ kiêng dè cự tuyệt, thì là bày tỏ trong lòng có “thịt” rồi, không phải đã phạm lỗi “năm mươi bước cười một trăm bước” sao? Sau khi “kiểm tra tâm mình”, tôi phát giác: Cái mà vốn cho là thanh tịnh, kỳ thực là cái không cứu cánh; cái mà vốn cho là nhiễm ô, lại chính là phương tiện độ chúng. Chỗ nói “mạt sắt làm mắt bệnh, mạt vàng cũng làm mắt bệnh; mây đen che mặt trời, mây trắng cũng che mặt trời”. Nhân duyên thuận nghịch đều là Phật đạo, sự lý thiện ác dùng nó thì được pháp, khả dĩ thành phương tiện độ sanh, tôi phải dùng ánh mắt siêu việt hơn để đối xử thế gian này.
Hơn hai mươi năm trước, Vương tiên sinh xưa nay công tác ở Công ty Điện lực ở Nghi Lan, sau khi đến Phật Quang Sơn, cảm thấy sinh hoạt tốt đẹp của đời sống ở chùa, do đó muốn cô gái thiên kim vừa tốt nghiệp đại học của ông cũng đến phục vụ Dục Ấu Viện Đại Từ trên núi. Vương tiểu thư lúc vừa mới đến, đột nhiên chuyển đổi một hoàn cảnh dậy sớm, ăn chay khác hẳn, hoàn toàn cảm thấy không quen. Chẳng bao lâu, bèn thưa với cha mẹ định đi làm ngoài xã hội. Cha mẹ cô ta lại khuyên răn hết lời: “Xã hội giống như địa ngục, ngàn vạn chớ nên đi!”. Cô ta chạy tìm tôi nói rằng:
- Sư phụ! Dù cho xã hội là địa ngục, cha mẹ cũng nên để con đi xem!
Tôi đem tâm mình suy, nghĩ lúc mình còn nhỏ, cũng chẳng hướng về sinh hoạt tự do tự chủ đó sao? Do đó lập tức xin vợ chồng Vương tiên sinh giùm cô ta, nhờ cậy họ cho con gái làm việc trên xã hội. Về sau, tôi thấy cô Vương tiểu thư vui vẻ khi sống trong xã hội, thầm cảm nhận rằng một người chỉ có kiểm tra lại chính tâm mình, mới có thể hiểu rõ người khác.
Tôi từ nhỏ đã trải qua cuộc sống thanh bần, mới đến Đài Loan không có một đồng một chữ, nhưng tôi vẫn nhận là chính mình có thể chịu đói chịu khổ, chứ nhất định không để đám thanh niên theo mình ra ngoài giảng pháp cũng cùng chịu khổ. Mỗi lần mua một vật gì quá mắc, tôi định trả giá, rồi tự nghĩ: Người bán hàng cực khổ kiếm tiền, cũng vì nuôi sống gia đình, nếu như ai cũng định trả giá, bảo họ bớt một chút, thì sinh hoạt của họ nhờ vào đâu? Như thế sau khi kiểm tra tâm của mình, tôi chẳng những rất hoan hỷ đưa tiền, mà còn nếu như đối phương bán thức ăn chay, giày dép Tăng hoặc sách vở văn vật Phật giáo, tôi đều chủ động trả thêm tiền để họ lời nhiều một chút, hy vọng kiểu này có thể khích lệ nhiều người đến cung ứng vật phẩm Phật giáo, cũng vì Phật giáo đồ mà mang đến nhiều phương tiện hơn.
Lúc đầu tiên mời người khác đến giúp tôi làm việc thường thường vì làm không được hoàn mỹ, tự mình lại phải thu thập cho thỏa đáng, lấy làm khổ não; nhưng về sau tôi nghĩ: Người ta không phải mới một lần bắt đầu mà có thể vai gánh vật một trăm cân, với lại mỗi người có chỗ sở trường không đồng, việc gì nếu như đòi hỏi hoàn mỹ thái quá, chỉ là luống tự làm khổ não mình, khổ não người. Tôi sao chẳng từ công tác đơn giản lúc đầu giao phó nhiệm vụ, một mặt tăng gia lòng tin của đối phương, một mặt quán sát năng lực của họ? Tôi giữ gìn lý niệm này, chẳng những huấn luyện được nhiều người làm công quả, mà lại có không ít người theo tôi đi vào hàng ngũ hoằng pháp lợi sanh. Đến nay tôi rất may mắn là chính mình có thể có tập quán kịp thời “kiểm tra nội tâm”.
Nhiều năm về sau, chụp hình đối với tôi mà nói hoàn toàn là một việc khổ sai, vì bất kể nơi nào lúc nào, hàng tín đồ chỉ cần trông thấy tôi, là xúm xít chạy đến, yêu cầu chụp hình chung, người này chụp xong, lại có người khác đến lấp vào chỗ trống, thật chẳng dễ cùng họ chụp xong, lại phải cùng cha mẹ họ chụp chung, sau đó cùng vợ con họ chụp chung, tấm này qua tấm nọ, chụp hoài chụp hủy. Lúc ban đầu tuy nghĩ đến nhu yếu của đồ chúng, tôi thầm nhẫn chẳng nói, nhưng trong lòng rất miễn cưỡng. Sau này, lúc tôi cùng với các giới lãnh tụ họp mặt. Thấy đồ chúng tranh nhau chụp hình với chúng tôi, lại từng người cùng với các danh nhân quốc tế này chụp chung, tôi chẳng khỏi sanh lòng hổ thẹn, nghĩ đến trên thế giới này chẳng phải chỉ có một mình cá nhân tôi nhẫn nại chụp hình, tôi lại tính làm gì? Sau khi kiểm tra tâm mình, tôi chẳng những vui vẻ cho phép người khác chụp hình chung, có lúc lại vì họ chọn vị trí, định khoảng cách, mỗi lần thấy mọi người có vẻ mặt vui tươi, tôi cũng đồng cảm mà hân hoan.
Quá khứ, mỗi năm đến ngày sinh nhật, tôi đều nổi giận một cách không hiểu nổi, xong việc thường thường buồn bực, vì sao mà lại như thế chứ? Rồi tôi đi xem xét sự kiện này nhận cho rõ ràng, mới biết là vì xem thấy việc đồ chúng vì tôi, vắt hết tim óc, nhọc thầy động chúng, khiến người thêm rất nhiều phiền phức, trong lòng rất băn khoăn. Tâm niệm vi tế này nếu không tử tế phản tỉnh, rất khó biết đến. Một hôm, tôi đột nhiên có chỗ ngộ: Tôi không thích người khác vì tôi thế này, vì tôi thế nọ, là cách nghĩ của riêng tôi. Nhưng đồ chúng rất thích vì tôi bận rộn, tôi hà tất cứ chấp vào nguyên tắc của mình, để người buồn khổ? “Tâm của mình” trải qua một phen “kiểm tra” rồi, bèn có thể xử lý viên dung. Như ngày sinh nhật thứ 60, tôi mời tín đồ sáu mươi tuổi đến núi, để mọi người đồng hưởng pháp lạc, tăng trưởng phước thọ, tự biết rất có ý nghĩa. Năm ngoái, khi mừng sinh nhật 72 tuổi, tôi chẳng những đem “Phật Quang Thái Căn Đàm” mới viết tặng cho những người đến chúc mừng, mà còn đem bao đỏ chuyển tặng Đại Học Phật Quang, thay mọi người tạo công đức ban thưởng học sinh, càng cảm thọ lạc thú sanh mạng kéo dài bất tận.
Tôi từ nhỏ rất chú trọng oai nghi của chính mình, cho đến hiện tại, đi đứng nằm ngồi vẫn có thể giữ gìn đầu ngẩng ngực ưỡn. Chỉ là tùy theo tuổi tác già cả, lại thêm mổ năm lần, bước đi có hơi chậm chạp, kỳ thực tôi lại có thể lên xuống thang lầu. Nhưng mỗi lần đến đâu hoằng pháp, tín đồ hễ trông thấy tôi, đều hoan hỷ đến nâng dắt, khiến tôi chẳng được tự tại, nhất là đại đa số chẳng biết chỗ quan trọng. Mỗi lần tôi xuống lầu, họ lại nâng cánh tay của tôi lên cao, khiến tôi phải ra sức thêm; mỗi lần tôi lên lầu, họ thiếu điều muốn khiêng tôi lên, khiến tôi càng thêm khổ sở. Chẳng qua nghĩ đến tín đồ xem tôi là trưởng bối, người trên, thậm chí có người còn gọi tôi là “ông già”, để cho họ dìu nâng một chút, trong lòng họ rất vui vẻ mà tôi cũng chẳng mất mát gì, do đó chẳng kể nhục thể cảm giác thế nào, đối với lòng lành ý tốt của họ, tôi đều biểu lộ sự cảm tạ từ nội tâm. Theo lối “kiểm tra tâm mình” như thế, tôi thầm thầm thể hội trên thế gian không có sự tình nào vui vẻ hay không vui vẻ, có thể đem cái vui vẻ của người khác làm sự vui vẻ của chính mình, để mọi người đều có thể rất hoan hỷ, không phải là rất tốt sao?
Tôi thường một mặt viết thơ, sửa bài, một mặt tai nghe mời dạy, một mặt phê công văn, một mặt trả lời vấn đề, ngay cho khi nghỉ dạy hay đi trên đường, cũng đều là có người vây quanh hỏi cái này, cái nọ. Tóm lại, mỗi ngày chỉ cần tôi mở mắt ra, là phải thân tâm toàn phó vũ trang, sáu căn cùng dùng, dần dần năm tháng chẳng đợi người, đối với loại công tác trùng điệp này cảm thấy phiền phức chẳng an. Mỗi khi định đưa ra kiến nghị lại nghĩ đến mình quá khứ bất kể ngoại cảnh rối ren thế nào, cũng đều an nhiên tiếp nhận, vì sao tuổi càng lớn, lại tu dưỡng sai đi? Mỗi lần “kiểm tra tâm mình” rồi, đối với đồ chúng rất có thể bao dung. Nhân đây mệt nhọc thế nào cũng lại có thể phát sanh lực lượng vô bờ. Do đó có thể thấy tâm linh như nhà máy phát điện, vĩnh viễn có nguồn năng lượng bắn ra không cùng.
Tôi mỗi ngày không ngừng “kiểm tra tâm mình”, từ đó phát hiện một nguyên tắc xử sự quý báu: “Bạn đúng tôi sai, bạn lớn tôi nhỏ, bạn vui tôi khổ, bạn có tôi không”. Nhiều năm qua tôi đem bí quyết này cùng chúng chung sống, không ngờ lại được bác sĩ Triệu Ninh khắc bên phải ghế ngồi. Tháng 12 năm ngoái (1998) tôi chủ trì buổi giảng Phật học tại Quốc Phụ Kỷ Niệm Quán, gồm ba ngày. Mỗi ngày đều mời các nhân sĩ nổi tiếng trên xã hội đến cùng giảng “Phật Quang Thái Căn Đàm”, có bác sĩ Triệu Ninh nổi tiếng “danh chủy” (miệng lưỡi sắc bén) cũng là một trong số khách quý nhận lời mời. Ông lấy đây làm đề tài, thuyết một đoạn kinh nghiệm của chính mình, khiến người cảm động:
Có một hôm, bác sĩ Triệu vừa diễn giảng xong, đi ra khỏi hội trường chuẩn bị lái xe về nhà, kết quả một chiếc xe taxi xông ra đụng vào xe ông, rõ ràng là tài xế này chính mình đã sai rồi, lại còn há miệng mắng lớn:
- Ông muốn chết hả?
Bác sĩ Triệu cũng trả lời:
- Anh mới muốn chết!
Tài xế nói liền:
- Ông ra đây!
Bác sĩ Triệu nói:
- Ra thì ra!
Đương lúc họ tức tối mở cửa xe định bước ra thì học sinh Cao Trung từ hội trường bước ra, thấy bộ dạng vung kiếm dương cung của họ liền há hốc miệng thất kinh. Bác sĩ Triệu lập tức “kiểm tra tâm của mình” tự nhủ thầm: “Vừa rồi mi vừa ở trên đài giảng phải làm sao xử lý quan hệ với người, tại sao hiện tại gặp sự tình này lại có bộ dạng khác?” Rồi lập tức đổi thái độ, cúi đầu nói với người tài xế:
- Xin lỗi! Tôi lầm rồi! Tôi sai rồi!
Người tài xế nghe xong, trước tiên ngạc nhiên, rồi đổi thái độ khiêm tốn, đưa hai tay ra nắm chặt ông, nói:
- Tôi chẳng tốt! Tôi mới chẳng tốt!
Một trường can qua sùng sục chực phát bèn chuyển thành hữu nghị kiểu ngọc ngà tơ lụa.
Trên lịch sử, vì có thể “kiểm tra tâm mình” mà trong một niệm chuyển hóa cảnh giới, thậm chí thành then chốt thắng bại là chuyện không thể kể xiết. Như Đại tướng Liêm Pha nước Triệu vì có thể “kiểm tra tâm của mình”, chuyển tâm cống cao ngã mạn thành khiêm hư, nhún nhường hướng về Tể tướng Lạn Tương Như mang gai chịu tội, từ đây chẳng những mở hết hiềm hận cũ, mà nước Triệu do sự hòa hợp của hai người, đồng mưu việc nước mà thành cường quốc đương thời. Đại phu Trâu Kỵ nước Tề chẳng những có thể “kiểm tra tâm mình”, không mê hoặc bởi lời xiểm mị dâm tà của thê thiếp và khách đến thăm, lại lấy đây để can ngăn Tề Tuyên Vương:
- Thần thực tại không đẹp bằng Từ Công, nhưng vợ thần yêu thần, tỳ thiếp thần sợ thần, khách của thần có việc nhờ thần, đều nói thần đẹp như Từ Công. Hiện tại, đất nước Tề rộng ngàn dặm, có 120 thành, phụ nữ trong cung cùng những người tả hữu thân cận ai cũng yêu vua, quan trong triều đình ai cũng sợ vua, người trong nước ai cũng mong cầu ở vua. Xem kiểu này, vua bị che mờ rất sâu rồi!
Tề Tuyên Vương nghe xong, cũng lập tức “kiểm tra tâm của mình”, liền hạ lịnh:
- Hễ ai có thể can gián lỗi lầm của Hoàng đế, bất kể triều thần hay bình dân đều được trọng thưởng.
Sau đó, mỗi ngày trong cung vua đầy ắp người can gián. Sau mấy tháng, người can ngăn giảm dần. Sau một năm, lỗi lầm sửa chữa không còn sai nhiều, lại cũng chẳng có người nào đến can, mà nước Tề từ đây thành một bá chủ trong thời đại Xuân Thu Chiến Quốc.
Phật giáo rất coi trọng công phu tâm địa, kinh nói: “Vì trị tất cả tâm, nên nói tất cả pháp; nếu không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?”. Cổ Đức cũng nói: “Trăm ngàn pháp môn, chẳng lìa nguồn tâm”. Giống như Tứ niệm trụ, Chỉ quán song tu… mà cửa Phật đã nói, đâu cũng đều muốn chúng ta tùy thời tùy chỗ “kiểm tra tâm của mình”. Phương pháp gốc thẳng nguồn trong này, chẳng biết hóa độ bao nhiêu người, nhưng ví dụ nổi bật nhất như Châu Lợi Bàn Đặc ngu muội chóng quên, nhờ “phủi bụi quét rác” mà kiểm tra tâm mình, cuối cùng chứng ngộ quả A-la-hán, Ương-quật-ma-la giết người vô số muốn đuổi theo giết Phật, mà không cách nào theo kịp, ngay khi nghe Phật nói một câu “Ta đã dừng lại rồi, còn ngươi chẳng dừng”. Ông ta lập tức “kiểm tra tâm mình”, liền sụp lạy dưới chân Phật sám hối lỗi trước. Từ đó thế gian bớt được một ma vương giết người, trong cửa Phật lại nhiều thêm một bậc long tượng độ chúng. Có thể thấy “kiểm tra tâm mình” là trọng yếu biết bao nhiêu! Nhất là đang lúc vinh quang đến, nếu không thể “kiểm tra tâm mình” thì tường cao ngã mạn sẽ ngăn mất tầm nhìn của chính mình. Ngay lúc phiền não xảy đến, nếu như không thể “kiểm tra tâm mình”, lửa bùng của sân giận sẽ đốt tiêu công đức của chính mình. Ngay lúc ngoại cảnh rối ren, nếu như không thể “kiểm tra tâm mình”, nước lũ tham dục sẽ làm chìm đắm ý chí của chính mình. Ngay lúc được mất lo lắng, nếu như không thể “kiểm tra tâm mình”, gió tà nghi kỵ sẽ thổi sụp lý trí của chính mình. Do đó, giờ giờ khắc khắc chúng ta đều phải cần cù tận tụy “kiểm tra tâm mình”, mới có thể thấu rõ nhân duyên, cân nhắc khinh trọng, biết chỗ lấy bỏ, lợi mình lợi người.
Muốn Làm Gì Phải Giống Như Thế
“Cuộc đời như sân khấu”.
Tùy theo sự biến đổi của vũ đài thời gian không gian, tùy duyên hồn nhiên, tự có thể gánh tất cả trách nhiệm trọng đại.
Tuổi nhỏ xuất gia rồi, thường nghe các bậc Sư trưởng răn nhắc mọi người: “Làm Hòa thượng thì phải giống Hòa thượng. Các ông không nên vạch đất tự giới hạn mình, muốn làm cái gì phải giống cái đó mới tốt!” Tôi nghe xong về sau, ghi khắc vào tâm, sau này câu “Làm Hòa thượng phải giống Hòa thượng” “Làm cái gì cần giống cái đó” phát huy công dụng rất lớn trong suốt một đời tôi.
Nhớ lúc đó gặp đúng thời kỳ chiến tranh chống Nhật, dân sinh thiếu thốn, kinh tế chùa chiền nghèo xơ xác, thường thường nước đã nấu sôi mà chẳng thấy có gạo bỏ vào nồi. Lúc ấy tôi chỉ là một chú Sa-di nhỏ, thấy thường trụ gặp khó khăn như thế, bèn lợi dụng thời gian ngoài giờ học, lên núi hái trái không hoa (nhuộm vải được), một mặt tăng thêm thu nhập của thường trụ, một mặt có thể giúp thường trụ đi tuần xem chừng rừng núi, để phòng ngừa mấy chú tiều nhỏ ăn trộm cây. Mấy năm sau, tôi vâng lời thầy đến chùa Định Tuệ ở Tiêu Sơn học Phật Học Viện, nhưng mỗi lần gặp kỳ nghỉ, tôi nhất định mau mau chạy về núi Thê Hà. Lúc nghỉ hè, quả không hoa đua nhau kết trái, tôi y như xưa mỗi ngày sáng đi chiều về, hái xuống cúng cho thường trụ. Thời kỳ khô hạn, thấy chúng trong chùa nước uống và giặt giũ bất tiện, tôi cũng tự động đến bờ sông gánh nước, mỗi lần đi về mất hết một hai giờ. Lúc nghỉ lạnh, năm mới âm lịch sắp đến, tôi lại cầm chổi quét sạch sân chùa, một mình từ sáng đến chiều, lau chùi cửa kính suốt một tháng trời. Vào mùa Xuân, tôi lại bận rộn giúp thường trụ tiếp khách hành hương, tuy một ngày trôi qua, thường thường mệt đứ đừ, nhưng tôi thường nghĩ: Chính mình xuất gia tại núi Thê Hà, núi Thê Hà chính là của mình, mình phải giống “một đệ tử xuất gia của núi Thê Hà”.
Thời thanh thiếu niên, tôi sinh hoạt trong tùng lâm mười năm, trong đó sáu năm làm hành đường, hai năm ty thủy, một năm rưỡi hương đăng lại kiêm giữ chức quản lý viên Đồ Thư Quán, hội trưởng Hội Tự Trị. Mỗi khi Đông đến, hành đường rất cay đắng, hai tay ngâm trong nước lạnh cóng rửa mấy trăm bát đũa, da lòng bàn tay, lưng bàn tay chỗ nào cũng nứt nẻ, ngay thịt màu đỏ bên trong cũng thấy rõ mồn một. Lúc đó không biết mang bao tay, bôi dầu. Ngày hôm sau lại công tác như thường, giống như từ xưa tới giờ chưa biết khổ sở vì vết thương, chỉ biết “làm một vị Tăng khổ hạnh phải giống hình dáng của một Tăng khổ hạnh”, lao nhọc cũng mặc, oán trách cũng mặc, cứ khiêm hư học tập.
Thuở bé vì gia cảnh bần hàn, không được giáo dục tốt đẹp, do đó rất quý tiếc cơ hội có sách để đọc. Vì muốn “làm một học sinh tốt”, tôi tự động tự phát, tự mình học tập. Ban ngày bận ruộng vườn, thời gian đọc sách rất ít, tôi lợi dụng thời gian vụn vặt còn thừa khi chỉnh lý sách vở ở Đồ Thư Quán mà ôn tập công khóa và xem thêm một ít sách ngoài khóa. Ngoài ra, mỗi tháng tôi lại tự đốc xúc mình biên một bản “Vườn đất của tôi”, trong đó có luận văn, giảng tòa, thơ mới, tản văn, báo cáo tâm đắc, cảm tưởng sinh hoạt… Tuy chỉ có một mình tôi xem, nhưng từ đó từng điểm từng giọt đặt cơ sở cho tôi ngày sau lúc biên tập tạp chí, viết tản văn cho đến lúc hoằng pháp Phật giáo, tiếp dẫn chúng sanh đều có thể dễ dàng, thực tại là việc trước lo chưa tới. Kinh nói: “Mỗi một trần hiện ra tất cả pháp, xoay chuyển vô ngại trang nghiêm khắp cả”. Lại nói: “Phật Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, khắp tất cả chỗ”. Tôi do đích thân vào trong thực tiễn nên càng thêm tin “tất cả các pháp đều là Phật pháp”, chỉ cần chịu phát tâm tối thượng, luôn luôn nghĩ đến chính mình “Làm cái gì cần phải giống thế ấy”. Chỗ đem lại lợi ích thực tại là vô lượng vô biên.
Lúc đó trời chiều không có đèn điện, thường trụ cũng không cho chúng tôi dùng dầu phụng đốt đèn, vì dầu dùng để ăn hằng ngày không đủ sử dụng, đâu có dư để chúng trong chùa đốt đèn xem sách. Tôi mỗi chiều đều lễ Phật tọa thiền qua đêm dài dằng dặc, mỗi lúc tâm tánh giải đãi, tự mình quán chiếu, nghĩ đến các bậc Cổ đức trong truyện Cao Tăng, tinh thần gian khổ chiến đấu, chẳng khỏi tự thẹn sự tồi tệ của mình. Vì muốn cho chính mình lại “giống một hành giả cửa Phật”, tôi ở trong đêm tối muôn vật lặng lẽ, dưới ánh đèn yếu ớt trước Phật, chích máu viết kinh, chấm từng giọt máu tươi bồi dưỡng tín tâm đạo niệm của mình đối với Phật pháp. Ngoài ra, tôi cũng giữ giới tịnh khẩu, và nếm thử qua sự tu trì không ăn quá ngọ. Trừ việc ngồi thiền lễ Phật hằng ngày ra, hễ nghe có tổ chức thiền tu, Phật thất, tôi cũng đều cực lực tranh thủ tham gia, trong đó từng có qua cảnh ngộ quên mình. Bao nhiêu năm nay, tôi không kể là chủ trì thiền thất, Phật thất, hoặc là chỉ đạo đại chúng tu trì, đều được tr��i chảy thuận tiện, không ngớt cảm tạ câu “làm cái gì phải giống cái đó” của Lão sư, khiến tôi làm được công tác tự lợi lợi tha.
Tăng lữ Phật giáo ắt phải đủ ba đao sáu chùy, khổ tu trong bốn mươi tám đơn, tôi đều là ở tại khóa tu sớm chiều, trong lao động làm việc mà dũa mài huân tập, diệu đế của Phật pháp thì ở tại đi, đứng, nằm, ngồi hằng ngày, một điểm một giọt ngay trong thực tiễn có chỗ thể ngộ. Trong sinh hoạt tham học bận rộn, tôi một lòng một dạ yêu cầu chính mình “làm được giống một người xuất gia”, do đó bình thường đối với tất cả sự xếp đặt của thường trụ, tôi đều hoan hỷ theo chúng, rỗi rảnh thì hành mật hạnh kèm vào. Theo kiểu này tư tưởng của tôi dần dần tịnh hóa, dáng dấp người xuất gia tự nhiên hiển hiện ra. Thẳng đến ngày nay, tôi thường dạy dỗ đồ chúng ý niệm “không thâu đồ chúng riêng, không chứa vàng bạc riêng, không dựng đạo tràng riêng, không giao thiệp với tín đồ riêng, không tự quyên góp riêng, không nhờ giúp đỡ riêng, không tạo sản nghiệp riêng, không lo ăn uống riêng”, kỳ thực đều bắt nguồn từ pháp tắc được thể nghiệm “muốn làm một người xuất gia” được học tập trong cửa Phật ngày còn bé.
Giáo dục của tòng lâm ngày trước mười phần nghiêm ngặt, lúc bước đi tròng mắt phải nhìn phía trước khoảng bảy thước (khoảng hơn hai mét), chẳng được ngó hai bên, không được ngước mặt, cúi đầu, chạy, đi mau. Lúc đứng phải có tướng đứng, hai tay buông xuống, nắm tay ngang ngực, phải biết vị trí của mình đứng. Lúc ngồi xuống, chỉ được ngồi nửa ghế, xương sống tự nhiên thẳng đứng, hai vai ngang nhau, phần dưới phải xếp lại. Lúc ngủ, phải nằm thế cát tường nghiêng bên phải. Lúc ra ngoài, mặc áo phải chỉnh tề, ra khỏi phòng nhất định phải mặc áo tràng, ra khỏi chùa phải mặc hải thanh (nhật bình), không được bịt khăn, đội mũ. Nếu oai nghi có chút sai sót, ngôn hạnh có chút không đúng pháp, sẽ ăn gậy giận hét của Sư trưởng ngay, mà oan uổng ủy khuất lại là việc thường có. Nhưng tôi xưa nay chưa từng thối chí nản lòng, cũng chưa từng cãi lại, ôm hận. Vì tôi trước sau đều biết rằng Lão sư từ bi chỉ dạy, làm một người hậu học hạng con em, phải nên “giống một người hậu học, con em” đem thân cung kính, lấy lòng hàm ân để tiếp nhận tất cả lời chỉ bảo răn nhắc. Chính vì thế, các lão sư rất vui lòng dạy tôi, tôi vốn không thông minh, ở dưới trăm rèn ngàn luyện, rõ ràng tiến bộ mau chóng.
Nhớ lại lúc ban đầu, sở dĩ tôi cạo tóc xuất gia lúc còn ấu trĩ là vì hồi nhỏ ở quê nhà thấy được pháp tướng oai nghi khoan thai của Đại hòa thượng, do đó thầm phát nguyện có ngày cũng khoác được Tăng bào, để người khác nói rằng tôi giống một Đại hòa thượng trang nghiêm. Về sau quả là nguyện chân thật không phát suông. Sau khi đi tu, nhớ mãi lời thề này, và thường lấy câu “ngôn tuyệt hư phù, hành tuyệt danh lợi” của đại sư Huyền Trang khắc vào bên phải tòa của mình.
Sáu mươi năm nay, tôi không hề mặc quần đùi, áo ngắn mà ra ngoài, tôi không hề mặc áo lớn mà chạy, không hề nói chuyện huyên thuyên với người ở quán cà-phê, không hề cầm dù lúc trời mưa trút nước, thậm chí lúc động đất dữ dội, đất đá rơi lở trước mặt, cũng đều có thể trấn tĩnh niệm Phật, không kinh không sợ… Những cử chỉ này đều không phải là làm bộ làm tịch, mà là trải qua nhiều năm tháng giữ mãi niệm ban đầu ngày đó – “Làm được giống như một Hòa thượng”, nuôi dưỡng thành thói quen.
Năm 1988, Tây Lai Tự vừa mới khánh thành, đồ chúng vì hiếu kỳ, ào ào phóng xe đến tiệm Phi Tát đòi ăn Phi-tát (Piza) tôi nghe nói cấm chỉ, không phải Phi-tát không được ăn mà là thân làm một người xuất gia, ở nơi công cộng chạy động đều chẳng phải chỗ thích hợp.
Như nay có nhiều người khen tôi đầy đủ oai nghi, bất kể nơi nào, lúc nào cử chỉ cũng đúng pháp. Tôi nghe mấy lời này, trừ việc cảm niệm đạo phong nghiêm nhặt của Phật môn ngày đó ra, còn muốn cảm tạ Lão sư đã ban cho một câu nói vàng ngọc: “Làm cái gì cần giống cái đó”.
Từ lúc ra khỏi Phật Học Viện, thường trụ phái tôi đến làm Hiệu trưởng một trường Tiểu học Quốc Dân gần chùa Bạch Tháp ở tổ đình Nghi Hưng. Điều này đối với một người xưa nay chưa hề có kinh nghiệm xã hội như tôi mà nói, là một kinh nghiệm hoàn toàn mới mẻ. Vì muốn “Làm được giống một vị Hiệu trưởng”, tôi thu góp rất nhiều sách vở về phương diện giáo dục và hành chánh, nghiên cứu tới lui. Địa phương dưới làng kinh phí không đủ, thầy trò thiếu thốn, tôi lại được kiêm nhiệm làm thầy dạy mấy lớp. Để làm được thầy giáo Quốc tiểu, để bọn học trò nhỏ được giáo dục tốt đẹp, tôi trước tiên suy nghĩ kế hoạch, lại có thể đạt được khóa trình của một người đồng một lúc dạy dỗ mấy lớp, mà bọn trẻ con đều có thể an tĩnh vào lớp không ồn náo. Lần rèn luyện này khiến tôi vốn rụt rè hướng nội, tăng thêm không ít lòng tin. Kinh nói: “Tất cả pháp lành, lấy dục làm gốc”, ý nguyện “Làm cái gì phải giống cái đó”, vô hình trung trở thành một động lực mạnh mẽ, đưa tôi từng bước tiến đến trước.
Về sau tôi cùng với những pháp sư đồng học như Trí Dũng… đến Nam Kinh tiếp quản chùa Hoa Tạng, định thử phát triển hoài bão đổi mới Phật giáo. Lúc đó người đố kỵ hiềm hận cố nhiên là có, nhưng người ngầm hoan hỷ cũng không ít. Họ gọi chúng tôi là một nhóm Tăng Thanh niên hữu vi. Tôi nghe được lập tức tự nhủ phải làm được “như một Tăng thanh niên”. Nhân đây chúng tôi vẫn bảo trì thái độ lạc quan tiến thủ, vì đạo hy sinh không hề luyến tiếc, hùng dũng tiến lên. Một chút thể nghiệm này vô hình trung nuôi lớn đảm lượng và kiến thức của tôi, khiến tôi ngày sau ở chỗ nguy không loạn, gặp hiểm vẫn yên.
Năm 1949, tôi xuống thuyền ở Cơ Long, Đài Loan rồi dần dà đến Trung Lịch, Tân Trúc, sau dừng ở chùa Lôi Âm tại Nghi Lan giảng kinh, vì muốn “làm giống vị Thầy giảng đạo”, tôi bắt đầu suy tư làm thế nào để dùng sự hiển lý, đem lý nói sự. Tôi luôn luôn tìm hiểu sự cao thấp, mau chậm của âm điệu, thái độ ung dung thích đáng, tôi thường kiểm thảo sự giơ tay cất chân của chính mình, xem phong độ nghi biểu có từ bi trang trọng hay không. Như nay tôi đi diễn giảng khắp nơi, có thể nói rất dễ dàng, thông thạo, nghĩ lại phải quy công cho những nỗ lực cần cù nhiều năm.
Ngay lúc còn sức lực, tôi bắt đầu thực thi tâm nguyện “bồi tài an Tăng” lúc trẻ. Vào năm 1965, dựng chùa Thọ Sơn ở Cao Hùng và mở Phật Học Viện. Không bao lâu, vì học sinh ngày càng đông, trường lớp không đủ sử dụng, tôi lại kiếm thêm một khu đất đầy rừng tre gai ở làng Đại Thọ lập Phật Quang Sơn, đem Phật Học Viện dời về đây. Tôi một thân một mình vừa làm trụ trì, giám công vừa làm hiệu trưởng, giáo sư, sư phụ… Để đóng tốt vai trò, tôi có thể nói là hết sức khổ tâm, nhất là học sinh từ chốn bụi trần muôn trượng đến đạo tràng thanh tịnh, tất nhiên có rất nhiều vấn đề trên thân tâm phải điều hòa thích hợp. Nhân đây ngoài lúc đẩy đất, gánh đá, chuyền ngói, khuân gạch, tôi tự phát thảo một sổ tay giáo dục, xác định phương châm và quy ước sinh hoạt. Tôi đòi hỏi Giáo vụ xứ tăng cường giáo tài, mời thỉnh bậc danh sư, thúc đẩy giao lưu giữa học sinh và thầy giáo. Tôi yêu cầu Phụ đạo xứ dùng khích lệ thay thế trách phạt, dùng hướng dẫn thay thế cấm chỉ mà chính tôi cũng thường khuyến dụ, điều hòa, để cho mọi người đều có thể trong lúc tu đạo được vui vẻ, ở trong sinh hoạt có pháp lạc. Sau này đệ tử theo tôi xuất gia lần lượt tăng, hễ người biết đọc sách, tôi để họ tiếp tục đào sâu; người biết sắp đặt việc, tôi để họ thi thố sự tài giỏi xếp đặt; người biết giáo hóa, tôi chỉ dạy họ làm sao hoằng pháp bố thí giáo lý; người biết tu trì, tôi chế tạo cơ duyên để họ chuyên tâm tu trì. Nhìn đồ chúng ai cũng được chỗ thích hợp, an tâm tu hành, có thể nói là niềm an ủi lớn nhất đời tôi.
Theo sau sự thành lập đoàn Triều Sơn, danh tiếng Phật Quang Sơn vang xa, tín đồ và khách hành hương ngày càng tăng. Thường thường nghe đệ tử thông báo có khách đến thăm, tôi lập tức theo đường núi quanh co gập ghềnh, từ công trường bước mau đến khách đường. Như thế một ngày mấy lượt, thật là gặp được khách thì mồ hôi đã đẫm lưng, y phục lại chẳng kịp thay, chỉ có mặc nó ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt. Vì muốn “làm một người xứng với chức trụ trì kiêm tri khách”, tôi lợi dụng lúc đi đường, trong óc việc trước tiên đối với mỗi địa phương, mỗi thời gian, mỗi một đường hẻm, mỗi một quá trình và phân đoạn đều có một phen kế hoạch toàn bộ. Đến lúc gặp mặt, tôi cũng nhiều cách tìm hiểu tâm lý người đến, thuận theo nhu yếu của họ, mong cho mọi người đều được vừa lòng, cảm nhận tràn trề pháp hỷ.
Mấy mươi năm nay, tôi chưa từng để bụng học qua cách giảng dạy, công trình, tri khách, điển tòa… nhưng tôi đều ôm thái độ “làm cái gì phải giống cái đó”, bên làm bên học, từ trong sai lầm điều chỉnh bước chân, từ trong mắt tai thấy nghe hấp thụ phương pháp chính xác. Năm tháng dằng dặc, xuân đi đông lại, tôi chạy trên con đường nhân sinh càng được thêm đầy đủ tự tại.
Bốn mươi năm tìm kiếm, cuối cùng tôi và mẹ đã liên lạc tin tức, chẳng những tôi vì bà mua một tinh xá ở Vũ Hoa Đài tại Nam Kinh để bà ở yên, lại thỉnh bốn bà già suốt ngày đánh bài với bà. Hễ là người đối với mẹ tốt, tôi ít nhiều đều trên vật chất, trên tiền bạc biếu xén lại. Tôi mời mẹ đến Nhật Bản, Mỹ Quốc, Hương Cảng, Đài Loan… để đồ chúng thấy mặt kết duyên, thậm chí tại Phật Quang sơn, tôi mời bà nói chuyện trên đại hội trước đồ chúng, bà nói với một vạn đồ chúng:
- Tôi cống hiến cho mọi người (các vị) lễ vật là con của tôi.
Nhưng ở chỗ riêng, lúc tôi mỗi lần sớm thăm tối viếng bà, bà đều bảo tôi:
- Ông ở trên đài giảng cho cả ngàn muôn người; nhưng dưới đài, cần nghe lời một mình tôi.
Đích xác, ngay đến lúc bỏ báo thân vãng sanh, chẳng kể tôi tuổi tác bao nhiêu, tôi vẫn nỗ lực “làm như một đứa con nhỏ”.
Năm 1988, ngay lúc hai bờ eo biển vì danh xưng đại biểu Vận Động Hội mà tranh chấp không thôi thì tôi lại đúng dịp tổ chức hội hữu nghị Phật giáo đồ thế giới lần thứ 16, muốn làm cho giống một nước chủ nhà, để mọi người đều vui vẻ, tôi ngày đêm toan tính, vì hội Phật giáo cả hai bờ mà đặt tên cho khéo léo: “Trung Quốc Bắc Kinh – Bắc Kinh Trung Quốc” khiến cho đoàn thể Phật giáo song phương phá kỷ lục cùng ngồi trong một nhà hội nghị. Tám mươi mấy đoàn thể đại biểu đến từ hơn ba mươi quốc gia đều đồng ý rằng: “Đây so với cách thức ở thế vận hội Olympic lại có đủ ý nghĩa hơn”. Vì duyên lành lần này, hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, cư sĩ Triệu Phác Sơ mời thỉnh tôi đến thăm Trung Quốc đại lục, khiến sự giao lưu giữa hai bờ tiến thêm một bước lớn.
Gần mười năm nay, tôi vân du thăm viếng các nơi trên thế giới để hoằng pháp lợi sanh, vì muốn “làm giống một người địa cầu ôm cả thế giới”, tôi nhập cảnh tùy tục, mỗi lần đến đâu đều là thăm hỏi dân tình phong tục, và học tập một ít ngôn ngữ địa phương, đi đường, một tiếng “How are you?” đều có thể giành được nụ cười thiện cảm của đối phương. Đứng trên đài, một câu “こんにちは” (kon ni chi wa) thường thường được người nghe vỗ tay vui vẻ.
Kinh Kim Cang nói: Người cần buông hết chấp trước, trừ khử bốn tướng. Chỉ có vô tướng mới có thể như hư không, không đâu chẳng hiện tướng, đạt đến cảnh giới chân không sanh diệu hữu. Cổ đức cũng nói: “Quân tử bất khí”. Chỉ cái “bất khí” này sở dĩ có thể tùy duyên nhậm vận, vai gánh tất cả trách nhiệm trọng đại.
Thăm viếng các nơi trên thế giới, những người không phải Phật tử cũng vui vẻ hỏi tôi làm sao mà có thể được cảm ứng. Tôi biết rằng “làm cái gì, giống cái đó” chính là một loại cảm ứng. Kinh A-Hàm ghi: Đức Phật ở cõi trời Đao Lợi giảng kinh ba tháng, lúc trở về thế giới Ta-bà, tượng Phật làm bằng gỗ tử đàn do vua Ưu Điền tạo cũng tự nhiên rời khỏi tòa đi đến đón tiếp đức Phật. Đây là vì tượng Phật do lòng thành kính khắc chạm rất sinh động, giống hình dáng và tinh thần của Phật-đà như đúc”, do đó có thể có cảm ứng khó được như thế.
Người biết diễn tuồng, bất kể là người tốt, người xấu, trung thần, gian thần… đều có thể đóng vai một cách xuất sắc, như Nghi Minh, Kim Siêu Quần diễn Bao Công, đều nhân vì diễn được “giống”, do đó được sự hưởng ứng nồng nhiệt của người xem. Đây không phải là một loại cảm ứng sao? Có người nói “cuộc đời như sân khấu”. Quả thật như thế, chúng ta cũng phải tùy sự biến đổi trên vũ đài không gian thời gian mà “làm cái gì giống cái đó”, cần thiết chớ vì sự không tròn trách nhiệm của mình mà làm hư hết bầu không khí của sân khấu, để mình người đều áo não thở than.
HT Tinh Vân