Quang Tự năm thứ 22, 57 tuổi. (1896/97)

Mùa hạ, tôi đến chùa Kim Sơn tại Trấn Giang an cư kiết hạ. Lão hòa thượng Đại Định giữ tôi lại qua đông.

Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân - Phần 1

Quang Tự năm thứ 23, 58 tuổi. (1897/98)

Từ chùa Kim Sơn, tôi qua núi Lang Sơn lễ bái đạo tràng Bồ Tát Đại Thế Chí. Xong, liền trở lại chùa, gặp hòa thượng Đạo Minh mời tôi đến Dương Châu làm trợ lý cho chùa Trọng Ninh. Tháng tư, pháp sư Thông Trí giảng kinh Lăng Nghiêm tại Tiêu Sơn, thính chúng ngàn người. Ngài bảo tôi phụ giảng. Giảng kinh xong, từ biệt đại chúng xuống núi.

Tôi được sanh ra mà không gặp mẹ, chưa từng thấy dung mạo bà. Lúc còn ở nhà có thấy hình thờ. Mỗi lần nhớ đến thì tâm cang liền đau nhức. Xưa kia có nguyện rằng sẽ đến chùa A Dục Vương lễ xá lợi của Phật, rồi đốt ngón tay cúng Phật, cầu siêu độ mẹ hiền. Thế nên tôi đi Ninh Ba. Bấy giờ có pháp sư Huyễn Nhân cùng hòa thượng Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay, hành hạnh đầu đà) đang trông coi chùa Thiên Đồng, hòa thượng Hải Ngạn đang tu chỉnh lại gia phả Dục Vương Sơn Chí, đều mời tôi phụ giúp. Nhưng vì nguyện mới đến đấy, nên tôi lễ phép từ chối.

Tôi lễ xá lợi từ sáng sớm canh ba đến chiều tối; trừ khi ở ngoài điện đường, không dùng bồ đoàn, tọa cụ. Mỗi ngày lễ ba ngàn lạy. Tối nọ, đang lúc ngồi thiền nhập định, như mộng mà không phải mộng, thấy trên không có một con rồng vàng, bay vào điện xá lợi trước hồ Thiên Trì, thân dài cả mấy mươi thước, sắc vàng chiếu sáng. Tôi leo lên lưng, rồng liền bay đến một nơi núi sông hùng vĩ, cây cỏ hoa trái xanh xanh u mịt, lâu các cung điện, trang nghiêm kỳ diệu. Thấy mẹ mình đang đứng trên lầu các xem cảnh, liền gọi: “Mẹ ơi! Thỉnh mẹ lên lưng rồng. Rồng sẽ đưa mẹ qua cõi Tây Phương.”

Rồng lập tức bay xuống. Ngay lúc ấy liền giật mình tỉnh giấc. Thân tâm cảm giác thanh tịnh trong sáng, cảnh giới rõ ràng. Đây là lần thứ nhất mộng thấy mẹ mình. Từ đó, mỗi ngày nếu có người đến xem xá lợi, tôi đều tham gia. Cách nhìn xá lợi của mỗi người đều khác biệt nhau. Tôi được xem nhiều lần. Ban đầu thấy hạt xá lợi lớn như hạt đậu, màu tím đen. Giữa tháng mười, sau khi lễ lạy hai đại tạng kinh Nguyên Thủy và Đại Thừa xong, lại xem lần nữa, thấy hạt cũng lớn như lần đầu, nhưng biến thành hạt châu màu đỏ. Tôi lễ lạy thêm nữa. Vì gấp rút cầu chứng nghiệm nên toàn thân đều đau nhức. Xem lần nữa, thấy hạt lớn hơn hạt đậu vàng, màu sắc nửa trắng nửa vàng. 

Đến lúc ấy, tin chắc rằng hạt xá lợi tùy theo căn tánh của mỗi người mà hiện. Lại gấp muốn cầu chứng nghiệm, gia tăng lễ bái. Đầu tháng mười một, chợt bị bịnh nặng, không thể lễ bái. Được đại chúng đưa đến ở tại hậu liêu Như Ý, nằm trên võng mà uống thuốc, không thể ngồi dậy. Bấy giờ, thầy thủ tọa Hiển Thân, thầy giám viện Tông Lượng, cô cư sĩ họ Lô, cùng chư vị khác tìm mọi phương thuốc để cứu trị cho tôi, nhưng chỉ phí tiền mệt sức, không thấy thuyên giảm chút nào. Đại chúng đều cho rằng duyên đời của tôi đến đây là hết. Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng ngặt vì lời nguyện đốt ngón tay cúng Phật chưa thành, nên tâm sanh khổ não. 

Đến ngày mười sáu, có tám vị khách tăng vào lều thăm, nghĩ là bịnh tình của tôi không nặng cho lắm, nên định giúp tôi đốt ngón tay cúng Phật. Tôi nghe thế, biết rằng ngày may sẽ bắt đầu nên kiên trì thỉnh cầu tham gia, nhưng chư thủ tọa cùng các vị thầy khác không tán thành, sợ nguy hiểm đến tánh mạng. Tự dưng nước mắt tôi cứ tuôn trào như suối mà thưa: “Có ai tránh khỏi chết sống đâu. Vì muốn báo đáp ân mẹ hiền nên phát nguyện đốt ngón tay cúng Phật. Không thể vì bịnh mà ngưng. Nếu không, sống có ích lợi chi? Tôi sẵn sàng đón nhận cái chết!”

Giám viện Tông Lượng (lúc ấy chỉ mới hai mươi mốt tuổi) nghe thế cũng rơi lệ, nói: “Ngài chớ lo phiền. Tôi sẽ hộ trợ Ngài thành tựu nguyện lực. Ngày mai tôi sẽ lo tế trai và chuẩn bị mọi việc để giúp Ngài.”

Tôi chấp tay cảm tạ.

Sáng ngày mười bảy, giám viện Tông Lượng mời sư đệ của thầy là Tông Tín hộ giúp tôi đốt ngón tay. Nhiều người luân phiên lên chánh điện phụ giúp lễ Phật. Sau khi tụng qua các nghi lễ, đến lúc đại chúng niệm văn sám hối, tôi nhất tâm niệm Phật, siêu độ mẹ hiền. Lúc đầu cảm giác toàn thân rất đau nhức. Kế đến, tâm từ từ thanh tịnh lắng trong; cuối cùng tri giác trong sáng. Vừa niệm đến câu Pháp giới tạng thân A Di Đà Phật, thì toàn thân tám mươi ngàn sợi lông đều dựng đứng. Sau khi đốt ngón tay xong, tôi tự đứng dậy lễ Phật, không nhờ người đỡ, lúc bấy giờ không biết thân mình đang mang bịnh, tự đi đến lễ tạ đại chúng. Trở về hậu liêu, cảm thán việc hy hữu này. Hôm đó dời ra khỏi hậu liêu Như Ý. Hôm sau, ngâm ngón tay bị thương vào nước muối cả ngày, không còn bị chảy máu nữa. Vài ngày kế, da thịt liền lại, từ từ lễ bái như thường.

Tôi trú tại chùa A Dục Vương qua năm mới.

(Phụ chú: Tên chùa, xưa là Quảng Lợi, sau lại đổi ra A Dục Vương, phía nam huyện Ninh Ba làng Nam Hương. Xưa, sau khi Phật diệt độ khoảng hai trăm năm, có vua A Dục trị vì tại trung Thiên Trúc, Ần Độ, phân xá lợi của Phật ra làm tám mươi bốn ngàn viên, để thờ trong bảo tháp. Sai khiến quỷ thần đem chôn nhiều chỗ. Về phía đông Ần Độ, tức nước Trung Hoa, có mười chín chỗ, lần lần xuất hiện, như núi Ngũ Đài và chùa A Dục Vương. Trong núi Ngũ Đài, có tháp xá lợi rất lớn nhưng khó mà thấy được. Đời vua Tấn Võ Đế niên hiệu Thái Khang năm thứ ba (282-3 AD), khi thiền sư Huệ Đạt lễ bái thỉnh cầu xá lợi Phật, thì từ dưới đất, xá lợi Phật liền vọt lên. Sau đó, một ngôi chùa được kiến lập lấy tên là A Dục Vương, còn xá lợi thì được để trong tháp đá. Cửa tháp thường đóng, nếu muốn ngắm xem xá lợi thì đầu tiên phải cho vị tháp chủ biết. 

Vào chánh điện lễ Phật xong, ra ngoài điện quì trên thềm đá; người muốn ngắm xem thì phải y theo thứ tự mà quì. Tháp chủ thỉnh tháp xá lợi ra. Tháp cao một thước bốn tấc, rộng khoảng trên một thước. Ở giữa tháp có treo một chuông thật tâm trong đó có một cây kim. Xá lợi đặt kế cây kim đó. Người ngắm xem, thấy hạt xá lợi lớn nhỏ, nhiều ít không đồng. Bình thường thì thấy một hạt hoặc ba hạt, màu xanh vàng đỏ trắng. Nếu thấy hoa sen cùng tượng Phật đó là người có duyên thù thắng với đạo. Đời nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch có giám quan sử bộ là Lục Quang Tổ cùng thân hữu đến xem. Mới đầu thấy như hạt đậu nhỏ, kế đến thấy như hạt đậu lớn, kế thấy như trái chà là, quả dưa hấu, rồi lại như bánh xe lớn, quang minh chiếu sáng, khiến thân tâm thanh tịnh trong sáng. Lúc bấy giờ điện xá lợi bị hư hại, Lục Quang Tổ phát tâm sửa chữa, trang nghiêm cho đến ngày nay. Đấng Như Lai vì lòng đại bi nên lưu lại pháp thân chân thể, để chúng sanh đời vị lai sinh tâm chánh tín.)

(Đại sụ trong năm: Đức thuê vịnh Giao Châu. Vua Triều Tiên xưng Hoàng Đế Đại Hán)

Quang Tự năm thứ 24, 59 tuổi. (1898/99)

Đầu năm, vẫn trú tại chùa A Dục Vương. Nhân chùa Thất Tháp ở Ninh Ba có đúc một đại hồng chung, hòa thượng Quy Y, hòa thượng Bổn Lai thỉnh pháp sư Mặc Am giảng kinh Pháp Hoa. Chư hòa thượng đến chùa A Dục Vương thỉnh tôi phụ giảng. Thế nên, tôi tới chùa Thất Tháp. Giảng kinh xong, đến núi Đồng Quan, Nghi Hưng kết am tranh ở qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 25, 60 tuổi. (1899/00)

Hòa thượng Kết Sâm và Bảo Lâm mời tôi qua Đan Dương trùng tu lại chùa Tiên Thai. Tôi an cư kiết hạ tại đây. Tháng bảy, đến Câu Dong, Giang Tô; hòa thượng Pháp Nhẫn tại Xích Sơn cho phép tôi ở lại am tranh với Ngài.

(Đại sự trong năm: Anh thuê Cửu Long Bán Đảo. Pháp thuê vịnh Quảng Châu)

Quang Tự năm thứ 26, 61 tuổi. (1900/01)

Tôi ở tại hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang đã hơn mười năm, lại muốn đi du hành. Mục đích kỳ này là định trở lại lễ bái núi Ngũ Đài, sau đó vào núi Chung Nam ẩn tu. Thế nên, tôi rời Xích Sơn. Đầu tiên đến Trấn Giang Dương Châu, lễ núi Vân Đài. Vào Sơn Đông, đến lễ núi Thái Sơn. Lại thẳng về đông đến Lao Sơn, tới hang Na La Diên, tức chùa Hải Ần của thiền sư Hám Sơn. Trở lại Khúc Phụ, lễ lăng miếu Khổng Tử. Hôm nọ, trên đường đi về hướng tây, ngủ tại một miếu hư, trống không, chỉ có một quan tài, nắp hòm xoay ngược, tưởng không có người, liền leo lên ngủ. Giữa đêm, nghe trong hòm có tiếng kêu: “Tôi muốn đi ra!”

Hỏi: “Ông là người hay là ma?”

Đáp: “Là người.”

Hởi: “Ông là người gì?”

Đáp: “Là ăn xin.”

Tôi cười thầm, ngồi dậy, cho gã đi ra. Hình dạng gã xấu xí như ma, hỏi tôi là ai.

Đáp: “Là hòa thượng.”

Gã nổi xung, bảo rằng tôi leo lên đầu gã mà nằm, nên định đánh. Tôi bảo rằng nằm trên nóc hòm mà không động đậy gì được, hà huống muốn đánh. Gã thấy khí lực yếu, nên bỏ đi, ra ngoài tiểu tiện, rồi lại trèo vào hòm nằm tiếp. Trời vừa hừng sáng, tôi rời chỗ ấy.

Bấy giờ, quân Nghĩa Hòa Đoàn tại các huyện thuộc tỉnh Sơn Đông đang khởi loạn. Ngày nọ, trên đường, gặp một gã lính lê dương, lấy súng chỉ thẳng vào người tôi rồi hỏi: “Có sợ chết không?”

Đáp: “Nếu phải chết trên tay ông, thì cứ bắn đi!”

Gã lính thấy thần sắc của tôi không đổi nên nói: “Tốt lắm, ông đi đi.”

Tôi vội đi Ngũ Đài. Hành hương xong, muốn qua núi Chung Nam. Vì đao binh ngày càng loạn lạc, tôi lại trở về Bắc Kinh, qua chùa Tây Thành, lễ kinh Thạch Tạng. Tại núi Đàm Tạng, gặp một vị du tăng kỳ dị. Sau đó, đến chùa Giới Đài lễ tháp thiền sư Phi Bát. Nơi núi Hồng Loa tham gia đạo tràng niệm Phật. Qua chùa Đại Chung xem chuông đồng được Dao Quảng Hiếu đúc. Chuông nặng 87.000 cân, cao mười lăm thước, rộng mười bốn thước, trên đỉnh cao bảy thước; bên ngoài khắc một bản kinh Hoa Nghiêm; bên trong khắc một bản kinh Pháp Hoa; kinh Kim Cang được khắc nơi vòng biên của chuông; trên đỉnh có khắc chú Lăng Nghiêm. Chuông này do vua Vĩnh Lạc đời nhà Minh đúc cúng dường để cầu nguyện cho mẹ ông siêu sanh.

Tôi trở lại phía nam của thành, trú tại chùa Long Tuyền.

Tháng năm, loạn quân Nghĩa Hòa Đoàn ngày một tăng, lấy lời hiệu triệu “Phù Thanh Diệt Dương”, giết thư ký của sứ quán Nhật cùng công sứ của nước Đức, do Hoàng Thái Hậu âm mưu. Đến ngày mười bảy tháng bảy, Hoàng Đế hạ chiếu cùng liên quân các nước tuyên chiến. Đại loạn trong thành Bắc Kinh. Lúc ấy, các vương công đại quan, những vị đã từng trú ngụ tại chùa Long Tuyền, đều khuyên tôi nên cùng họ hộ giá đi về miền tây. Trong cơn binh hoang ngựa loạn, không còn sự oai nghi lẫm lẫm của một vị Thiên Tử như lúc bình thường. Ngày đêm ruỗi chạy, gian khổ muôn vàn. 

Tới huyện Phụ Bình, đoàn hộ giá nghe tin tướng Cam Phiên, Sầm Xuân Tuyên dẫn quân đến hộ giá vượt Vạn Lý Trường Thành. Hoàng Đế cùng Thái Hậu rất vui mừng. Đoàn hộ giá vào huyện Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Nơi đây có chùa Vân Môn, do một vị lão tăng, trên một trăm hai mươi bốn tuổi, trụ trì. Hoàng Đế ban lụa vàng cho vị lão tăng và sai người sửa chữa phòng ốc trong chùa. Đoàn hộ giá lại đi về hướng tây, đến Bình Dương, vùng đất biên địa hoang vu. Nhân dân trong vùng dâng khoai rừng cho Hoàng Đế. Vì đang đói khát nên Hoàng Đế và Thái Hậu ăn rất ngon lành. Đến Tây An, Hoàng Đế trú tại dinh phủ. Nơi đó, dân chúng hiện đang đói rách khổ sở, có người dám ăn cả thây chết. Hoàng Đế liền ra lệnh cấm việc này và dựng tám lều vải nơi phía tây của thành để phân phát thức ăn cho dân nghèo. Tại các thôn xóm lân cận, cũng chẩn tế cứu giúp dân nghèo như thế. Tướng Sầm Xuân Tuyên thỉnh tôi đến chùa Ngọa Long lập đàn tràng cho pháp hội tiêu tai giải nạn. Làm Phật sự xong, lão hòa thượng Đông Hà mời tôi trú tại chùa Ngọa Long. Thấy đoàn hộ giá ngày càng có nhiều việc phiền rộn, nên tôi lặng lẽ bỏ đi.

Tháng mười, tôi lên núi Chung Nam kết am tu hành. Đằng sau ngọn Gia Ngũ Đài tôi tìm được động Sư Tử. Vùng này yên tĩnh, không bị bên ngoài làm phiền muộn. Nơi đây, tôi đổi tên lấy hiệu là Hư Vân mãi về sau.

Núi thiếu nước nên tôi nấu tuyết ra để uống, trồng vài loại rau dại để dùng. Lúc bấy giờ, trên núi có thầy Bổn Xương trú tại núi Phá Thạch, thầy Diệu Liên trú tại miếu Quan Đế, thầy Đạo Minh trú tại động Ngũ Hoa, thầy Diệu Viên trú trong một am tranh cũ, thầy Thanh Sơn trú tại sau núi. Thầy Thanh Sơn là người Hồ Nam, được tăng chúng trên núi tôn kính hơn hết. Tôi thường qua lại với thầy vì ở gần bên cạnh.

Tháng tám, ba thầy, Phục Thành, Nguyệt Hà, Liễu Trần đến am, gặp tôi liền nói: “Bao năm tháng không biết tin tức, ai ngờ được Thầy đang ngủ ở đây!”

Tôi đáp: “Hãy gác chuyện nầy lại, vậy chứ miền dưới hiện nay như thế nào?”

Sau đó chúng tôi đảnh lễ lẫn nhau, rồi cùng ăn khoai rừng. Xong, tôi dẫn các thầy đến núi Phá Thạch. Lão pháp sư Nguyệt Hà nói: “Lão nhân Pháp Nhẫn núi Xích Sơn rất ưu phiền vì hoàn cảnh xung quanh. Hiện tại, Ngài đang giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Qui Nguyên, Hán Dương; vì muốn ra đất bắc, mới nhờ tôi đi trước, tìm chỗ.”

Thầy Nguyệt Hà lại mời tôi cùng đi tìm đất. Vì đang tu tập thiền định nên tôi khước từ lời mời. Vừa nhập một thiền thất xong thì các thầy Hóa Thành, Dẫn Nguyệt, Phục Giới v.v… tìm được đất tại núi Thúy Vi trở về. Thầy Nguyệt Hà hỏi tôi xem có ý kiến chi. Tôi đáp: “Đất ấy, bắc hướng Bạch Hổ, Thái Bạch, phía sau lại không có núi để tựa. Vậy, không phải là đất lành.”

Các thầy không nghe lời bàn của tôi nên sau này phải chiêu lấy hậu quả.

Đông đến, lão nhân Thanh Sơn nhờ tôi đi Trường An mua đồ. Mua xong, trên đường trở về núi gặp lúc tuyết rơi dữ dội. Vừa trèo lên núi để về am tranh thì tôi bị trợt chân xuống vũng tuyết sâu dưới chân núi. Tôi kêu cầu cứu. Thượng nhân Nhất Toàn ở bên cạnh am đến cứu. Y phục trong ngoài đều bị ướt. Trời cũng vừa chập tối. Biết hôm sau tuyết sẽ rơi đầy khắp nơi, lấp mất đường lộ, nên tôi dò dẫn lối đi trong tuyết lạnh, để trở về am tranh, rồi đến chỗ thầy Thanh Sơn. Thấy hình dáng xốc xếch, thầy cười và bảo rằng tôi chẳng làm nên tích sự gì. Tôi chỉ gật đầu rồi trở về am mình trú qua năm.

Quang Tự năm thứ 27, 62 tuổi. (1901/02)

Tôi vẫn ở tại am tu thiền trong mùa xuân và hạ. Lão nhân Pháp Nhẫn từ Xìch Sơn đến đất Thiểm Tây, kết am tại núi Thúy Vi, cùng với hơn sáu mươi vị. Phân nửa trú tại chùa Hoàng Dụ. Phân nửa trú tại am tranh mới cất và chùa Hưng Thiện. Khi đó, tướng họ Tô đang khai khẩn đất hoang ở miền bắc. Ông lấy ấp Bá Than, rộng khoảng một trăm mẫu cấp cho tăng chúng núi Thúy Vi, trồng trọt sinh sống tu hành. Người địa phương không chấp thuận. Họ bảo nơi đó là đất tổ tiên trú ngụ bao đời, không thể cắt ruộng xẻ đất cho ai. Chư tăng không khứng chịu. Thế nên, việc này phải đem ra tòa xử lý. Chư tăng thua kiện. Lão pháp sư Pháp Nhẫn rất bực tức, nên năm sau trở về Nam, và đem tất cả pháp khí, vật dụng trả lại cho thầy Thể An, Nguyệt Hà. Bốn chúng sau đó phân tán. Mỗi lần nhớ đến chuyện rắc rối này, nhận thấy là chớ cậy chút uy quyền mà kết cuộc phải mang lấy tai họa. Từ đó, chư tăng từ miền nam lên đất bắc đều bị ít nhiều tai tiếng. Vì thế, không thể coi thường hình thể núi sông mà cho là không quan hệ đến việc tu hành.

Gần cuối năm, núi non đều đóng tuyết, hang sâu khí lạnh buốt xương. Một mình tôi đơn độc tu trì trong am tranh, thân tâm thanh tịnh. Ngày nọ, sau khi bỏ khoai vào nồi, tôi ngồi xếp bằng đợi khoai chín, tự nhiên nhập định.

Quang Tự, năm thứ 28, 63 tuổi. (1902/03)

Qua năm mới, tôi nhập định không biết ngày giờ. Trên núi, gần am có các thầy như Phục Thành v.v…, lấy làm lạ vì sao đã lâu mà tôi chưa tới, nên đến am chúc mừng năm mới cùng tặng quà cáp. Họ thấy ngoài am đầy dấu chân hổ, mà chẳng thấy dấu chân người. Họ đi vào, nhìn kỹ, thấy tôi đang nhập định, liền đánh khánh khiến xả định.

Các thầy hỏi: “Thầy đã ăn cơm chưa?”

Tôi đáp: “Thưa chưa! Khoai vẫn còn trong nồi, chắc đã chín rồi.”

Mở nắp nồi ra, thấy mốc đầy cả tấc, nước đóng cứng như đá. Thầy Phục Thành chúc mừng nói: “Nhất định là thầy đã nhập định hơn nữa tháng rồi!”

Sau đó, họ cùng tôi đun tuyết, nấu khoai. Ắn khoai xong họ liền từ giã. Vài ngày kế, sau khi thầy Phục Thành rời am, chư tăng kẻ tục xa gần đến thăm. Chán việc khách chủ đối đáp, tôi lặng lẽ mang hành lý bỏ đi trong đêm tối, hướng về muôn dặm nơi không có một tấc cỏ. Đầu tiên, tôi đến núi Thái Bạch, ẩn cư trong hang sâu núi thẩm. Chẳng bao lâu, thầy Giới Trần theo vết chân tôi mà tìm đến. Thầy muốn cùng tôi đi xa, mục tiêu là núi Nga Mi. Chúng tôi vượt khẩu Bảo ấp, đến núi Tử Bá, qua Diệu Đài Tử, đến miếu Trương Lương, tới huyện Chiêu Hóa, xem cây bách Trương Phi, đến Thành Đô, tạm dừng chân tại một ngôi chùa nhỏ. Sau đó, chúng tôi từ Gia Định đi thẳng đến núi Nga Mi, leo lên Kim Đảnh, ngắm xem ánh sáng chư Phật. Những ánh sáng này cùng với Phật quang tại núi Kê Túc không khác. Tối lại ngắm xem muôn chùm ánh sáng bay lên bay xuống trên đảnh núi. Những chùm ánh sáng này cũng giống như bao chùm ánh sáng và đèn trí huệ tại núi Ngũ Đài. Chúng tôi đến điện Tích Ngõa lễ lão hòa thượng Chân Ứng, tuổi ngoài bảy mươi, là vị lãnh tụ của toàn núi, cũng là bậc thiện tri thức trong tông môn. Ngài vui vẻ giữ chân chúng tôi lại vài ngày.

Xuống núi, chúng tôi đi quanh hồ Dật Tượng, đến chùa Đại Nga, mộ Trưởng Lão, điện Tỳ Lô, huyện Nga Mi, huyện Hạp Giang, rồi qua Ngân Thôn. Tới sông Lưu Sa, gặp lúc nước lớn, chúng tôi phải đợi đò từ sáng đến trưa. Sau khi mọi người đều lên đò, tôi bảo Giới Trần mang hành lý lên trước. Còn tôi, vừa định lên thì dây neo bị đứt, nhưng kịp bám được mạn đò bằng tay phải. Đò nhỏ mà người đông, nếu nghiêng qua lắc lại chút ít thì cũng đủ bị lật. Thế nên, tôi không động đậy, thân chìm dưới nước, cố bám mạn đò. Chiều đến, đò vừa tấp vào bến thì người trên đò kéo tôi lên. Y phục cùng hai bàn chân đều bị đá lớn đá nhỏ cắt đứt. Trời lạnh mưa tuôn, chúng tôi đi đến ải Sái Kinh. Các quán trọ đều không cho tăng nhân trú ngụ. Chúng tôi lại đi ra ngoài, đến một ngôi chùa chỉ có một tăng trụ trì. Chúng tôi xin tạm trú qua đêm cả ba lần mà thầy kia chẳng cho, lại bảo ra ngoài trước cổng chùa tạm trú dưới bục thềm. Đất ướt, y ướt, nên chúng tôi lấy tiền nhờ thầy kia mua rơm khô để đốt sưởi. Thầy kéo đến hai bó rơm ướt, chẳng đốt được. Chúng tôi chỉ nhẫn nhục lãnh thọ, ngồi dưới đất ướt, kham chịu khí trời lạnh buốt qua đêm. Ngày kế, chúng tôi mua trái cây khô ăn lót lòng rồi tiếp tục tiến bước.

Chúng tôi qua núi Hỏa Nhiên, đến Kiến Xương, phủ Ninh Viễn, tới châu Hội Lý, vào biên giới tỉnh Vân Nam; ghé huyện Vĩnh Bắc, lễ thánh tích Bồ Tát Quán Ấm; vượt sông Kim Sa, thẳng đến núi Kê Túc, ngủ đêm dưới gốc cây, lại nghe trong cửa đá có tiếng chuông mõ vang lên. Ngày kế, lên Kim Đảnh dâng hương lễ bái các chùa. Nghiệm lại đạo tràng Phật Tổ hiện tại suy đồi hoang phế, quy củ của tăng chúng toàn trấn đọa lạc thậm tệ, tôi phát nguyện kết am ở lại núi để tiếp đãi khách hành hương lên núi lễ bái, nhưng con cháu trong các chùa chẳng cho phép. Tâm tư buồn bã, rơi lệ, tôi xuống núi, đến phủ Côn Minh, được cư sĩ hộ pháp Sầm Khoan Từ lưu giữ lại chùa Phúc Hưng. Tôi bế quan nhập thất. Giới Trần làm hộ pháp. Tôi ở trong thất qua năm.

Quang Tự năm thứ 29, 64 tuổi. (1903/04)

Trong khi nhập thất, một vị tăng từ chùa Ngưỡng Dương đến, nói rằng chùa có phóng sanh một con gà trống nặng vài cân. Gà nầy rất dữ tợn. Những con gà khác đều bị nó đá có thương tích. Tôi liền thuyết giới và dạy nó niệm Phật. Chẳng bao lâu, nó không còn cắn đá những con gà khác và ăn bọ trùng nữa. Một mình nó bay lên cây cao, chỉ ăn thực phẩm khi được cho. Lâu sau, những khi nghe tiếng chuông khánh thì nó liền đi theo sau đại chúng lên chánh điện tụng kinh. Khi được dạy niệm Phật, nói liền gáy tiếng như: “Phật, Phật, Phật…”

Hai năm sau, ngày nọ, khi làm lễ công phu chiều xong, nó ngưỡng cổ lên, xòe đôi cánh và vỗ ba lần giống như niệm Phật, rồi đứng thẳng mà chết. Trải qua vài ngày mà thân sắc của nó vẫn không biến đổi. Sau đó, chư tăng để nó vào một thùng kín và hỏa táng.

Quang Tự năm thứ 30, 65 tuổi. (1904/05)

Mùa xuân, chư hộ pháp cùng hòa thượng Khế Mẫn đến khẩn thỉnh tôi ra thất để đến chùa Quy Hóa giảng kinh Viên Giác và kinh Bốn Mươi Hai Chương. Người quy y Tam Bảo tại chùa hơn cả ba ngàn người. Mùa thu, thượng nhân Mộng Phật thỉnh tôi đến chùa Cung Trúc giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tại chùa, tôi hướng dẫn khắc bản gỗ kinh Thủ Lăng Nghiêm cùng các bài thi kệ của đại sư Hàn Sơn. Những bản gỗ khắc nầy được tồn trử tại chùa. Tôi cũng được cung thỉnh truyền giới. Phật sự xong, đề đốc Trương Tùng Lâm, tướng Lý Phúc Hưng cùng quan thân sĩ thứ cung thỉnh tôi đến phủ Đại Lý giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Sùng Thánh, Tam Tháp. Người quy y Tam Bảo cả vài ngàn người. Đề đốc Lý Phúc Hưng muốn giữ tôi lại. Tôi đáp: “Tôi không thích trú tại thành phố. Xưa kia, muốn kết am tại núi Kê Túc nhưng con cháu các chùa trên núi không cho. Nay chư vị là hộ pháp, vậy hãy cho tôi một khoảnh đất; nguyện cất am tiếp chúng, cùng cứu vãn tăng chúng toàn trấn, khôi phục đạo tràng của tổ Ca Diếp. Đó là sở nguyện của lão tăng này vậy.”

Chư vị hộ pháp đều trả lời là được. Họ lại bảo quan Tri Huyện huyện Tân Châu trợ giúp. Trên núi, tôi tìm được một am thất hư tàn, tên là Bồn Vu, để tạm trú. Trong am không có phòng xá, không lương thực, nhưng tôi vẫn tiếp lễ bốn chúng từ mười phương đến.

Am Bồn Vu được lập từ đời Gia Khánh, nhà Thanh (1796-1820), vốn không có tăng trụ trì vì bên ngoài cửa chùa có một tảng đá, Bạch Hổ. Tôi muốn xây hồ phóng sanh nơi đây, nên thuê người dời tảng đá đó. Đào đất chung quanh tảng đá, nhưng không thấy chân đá. Tảng đá cao chín thước bốn tấc, rộng bảy thước sáu tấc. Đỉnh đá bằng phẳng, có thể ngồi thiền trên đó. Thuê hơn một trăm công nhân để dời tảng đá đó ra xa hai trăm tám mươi thước. Công nhân gắng sức cả ba ngày mà tảng đá vẫn không động đậy. Sau khi tất cả công nhân bó tay bỏ về, tôi tụng đọc kinh chú, cầu nguyện chư thần hộ pháp Già Lam Thánh chúng gia hộ, rồi hướng dẫn hơn mười vị tăng, di chuyển được tảng đá đó qua bên phải cửa chùa. Người đến xem phải kinh ngạc, biết là nhờ thần lực của chư thần hộ pháp gia hộ. Nhân việc lành này, có người đề khắc lên tảng đá: “Vân Di Thạch”, tức là tảng đá được di chuyển bởi lão tăng Hư Vân. Quan thân sĩ thứ cũng đề thơ lên tảng đá đó rất nhiều.

Vì muốn trùng tu mái chùa để tiếp hầu tăng tục mười phương, nên tôi phải gấp rút đi quyên góp tịnh tài. Tôi giữ thầy Giới Trần ở lại làm Lương Lý nội vụ, rồi một mình đi thẳng qua Đằng Xung. Từ Hạ Quan đến Vĩnh Xương, qua Hòa Mộc. Cả hơn trăm dặm, đường xá thật rất khó đi. Quan dân xưa nay chưa từng sửa chữa. Tôi nghe người dân địa phương nói: “Có một vị tăng ở tỉnh ngoài đến, tự phát tâm khổ hạnh sửa sang đường xá. Không đi quyên góp, chỉ nhận thức ăn cúng dường của khách qua đường. Như thế đã bao thập niên rồi mà chưa từng thối chuyển. Đường lộ đã được Ngài sửa chữa khoảng chín mươi phần trăm. Người Bố Phiêu nơi đây cảm kích ân đức, muốn sửa lại chùa Khổng Tước Minh Vương lại cho Ngài ở, nhưng Ngài từ chối và cứ tiếp tục sửa đường.”

Tôi nghe điều kỳ lạ này, liền đi thẳng đến tìm Ngài. Hoàng hôn vừa xuống, tôi gặp Ngài trên đường, đang mang cuốc xẻng và giỏ rơm, chuẩn bị trở về. Tôi đến trước mặt định hỏi, nhưng Ngài trương mắt nhìn thẳng mà không đáp lời. Tôi cũng không để ý, chỉ cùng theo Ngài đi thẳng về chùa. Ngài bỏ dụng cụ xuống xong, liền đến ngồi trên tấm bồ đoàn mà tọa thiền. Tôi cúi mình đảnh lễ. Ngài chẳng thèm nhìn hay nói năng gì. Tôi cũng ngồi thiền đối diện trước mặt Ngài. Sáng hôm sau, Ngài nấu cơm, tôi thổi lửa. Khi cơm chín, Ngài chẳng thèm kêu mời. Tôi cũng vẫn lấy chén xúc cơm ăn. Ắn xong, Ngài cầm cuốc, tôi mang giỏ, cùng nhau ra đường liệng đá đào đất, trải cát. Cùng làm và nghỉ ngơi như thế cả hơn mười ngày mà chưa từng nói năng một lời nào. Tối nọ, trăng sáng như ban ngày, tôi ngồi thiền trên một tảng đá ngoài sân chùa cho đến khuya. Ngài từ trong chùa bước đến sau lưng tôi mà hô tiếng lớn: “Thầy đang làm gì đây?”

Tôi từ từ mở mắt ra và trả lời: “Thưa, tôi đang ngắm trăng.”

Ngài hỏi: “Trăng ở đâu?”

Tôi đáp: “Vừng trăng sáng tuyệt đẹp.”

Ngài đáp lại:

“Giữa bao giả huyễn, khó biết chân thật

Chớ nhận cầu vòng làm ánh sáng.”

Tôi đáp:

“Xưa nay ánh sáng bao trùm muôn vật

Chẳng bị âm dương tuyệt cách ngăn.”


Ngài cười to và nói: “Thôi, trời đã khuya rồi. Chúng ta hãy vào trong nghỉ ngơi.”

Hôm sau, Ngài vui mừng bắt đầu tiếp chuyện, cho biết là người Hồ Hương Phiêu tỉnh Hồ Nam, tên là Thiền Tu, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm hai mươi bốn tuổi, tại thiền đường chùa Kim Sơn Ngài đã mang tâm về nơi an trú (tâm không còn vọng động). Sau đó, Ngài đi lễ bái các núi trong nước, cho đến cả Tây Tạng, Miến Điện. Từ Miến Điện trở về nước, trên lộ trình thấy đường xá ở đây ghập ghềnh khúc khỉu, người ngựa đi đứng khó khăn, khởi tâm thương xót. Lại nhân cảm đức hạnh xưa của Bồ Tát Trì Địa, nên Ngài phát nguyện một mình ở lại đây để sửa sang đường xá, đã qua bao thập niên. Hiện thời, tuổi ngoài tám mươi ba, chưa từng có tri kỷ, nay được gặp người hữu duyên, thật là vui vẻ.

Tôi cũng thuật lại nhân duyên xuất gia của mình. Ngày kế, sau khi ăn sáng xong, chúng tôi trò chuyện rất vui vẻ, rồi lại chia tay. Tôi đi Đằng Xung để quyên góp tịnh tài. Vừa ghé ngang hội quán Hồ Nam, chưa kịp đặt hành lý xuống để nghỉ ngơi, bỗng đâu có một nhóm người trẻ tuổi đang mặc áo tang đi đến trước tôi, dập đầu lễ bái và thưa: “Chúng con xin cung thỉnh Hòa Thượng đến nhà để tụng kinh!”

Tôi đáp: “Tôi không phải là ông thầy tụng kinh đám!”

Họ thưa: “Xin Hòa Thượng vì chúng con mà tụng kinh.”

Tôi đáp: “Chẳng lẽ, chư vị không biết có thầy nào trong vùng này thường đi tụng kinh đám sao?”

Người chủ hội quán liền thay mặt họ mà trần thuật sự việc như sau: “Xin thỉnh Đại Sư đi tụng kinh cho nhà họ, vì việc này xảy ra rất lạ lùng, hiếm có. Những người này là con cháu của quan Thái Sử họ Ngô. Lúc Thái Sử còn sống, ông tu trì rất cẩn mật, được người địa phương xưng là vị Thiện Nhân. Lão thái bá họ Ngô, tuổi thọ hơn tám mươi, con cháu được vài mươi người, mà trong đó có vài vị là bậc khoa bảng, tiến sĩ. Trước ngày mất, Thái Sử họ Ngô tự nói mình là tăng nhân, nên trong di chúc có nói là phải được tẩm liệm với y phục của người xuất gia, không cho gia quyến khóc lóc, giết hại loài vật, hay mời thầy cúng đến tụng kinh, và bảo rằng mai đây sẽ có một vị cao tăng đến tụng kinh siêu độ cho ông. Sau đó, ông ngồi xếp bằng mà mất. Qua vài ngày, nét mặt vẫn còn tươi tỉnh như lúc còn sống. Nay Đại Sư đến, có phải đây là duyên pháp chăng?”

Nghe xong, tôi nhận lời đến nhà họ tụng kinh siêu độ cùng phóng sanh, bố thí, trong bảy ngày. Các quan dân sĩ thứ trong xã ấp đều vui mừng hoan hỉ. Người thọ giới quy y hơn cả ngàn người. Quan thân sĩ thứ muốn giữ tôi ở lại Đằng Xung. Tôi đáp: “Tôi muốn tu sửa lại núi Kê Túc mới đến đây hóa duyên, nên không thể ở lại được.”

Nghe thế, mọi người đều vui vẻ đóng góp cúng dường rất thâm hậu. Tôi mang số tiền này trở về núi Kê Túc, xây dựng phòng xá, thiền đường, giảng đường, cùng chấn chỉnh luật nghi, lập ra quy củ, ban truyền giới pháp. Năm ấy, bốn chúng đến cầu thọ giới hơn bảy trăm vị. Những chùa chiền trên núi cũng thay đổi theo quy củ từ từ. Họ mặc tăng y, cạo râu tóc, ăn chay trở lại.

(Đại sự trong năm: Nhật-Nga tuyên chiến. Trung Hoa tuyên bố trung lập.)

Quang Tự năm 31, 66 tuổi. (1905/06)

Mùa xuân, lão hòa thượng Bảo Lâm tại chùa Thạch Chung thỉnh tôi đến chùa truyền giới. Cầu giới có hơn tám trăm người. Phật sự xong, tôi qua Nam Dương hoằng pháp. Giới Trần bế quan nhập thất tại am Bồn Vu. Khi đến chùa Thái Bình tại Nam Điện, tỉnh Vân Nam, tôi giảng kinh A Di Đà. Giảng xong, vài trăm người thọ giới quy y. Sau đó, theo những vách núi cheo leo, Thiên Nhai, tôi vượt qua núi Dã Nhân, đến Tân Nhai, Ngõa Thành. Vì vùng núi Dã Nhân là nơi thâm sơn chướng độc, nên tôi bị cảm bệnh rất nặng. Tôi trú trong những chòi lá ven đường. Thân thể ngày đêm nóng rực. Tuy bịnh nặng, tôi vẫn cố gượng đi đến chùa Quán Ấm tại Liễu Động. Trong chùa có một thầy người Hoa, tên là Định Như. Tôi lễ bái, nhưng thầy chẳng thèm nhìn. Tôi lên chánh điện tọa thiền. Đến tối, trên chánh điện, lúc thầy đánh khánh, tôi giúp đánh chuông trống. Sau khi đọc văn sám hối, thầy xướng: “Giết, giết, giết”, rồi lạy ba lạy. 

Hôm sau, lên chánh điện, tụng kinh xong, thầy cũng xuớng lên chữ giết và lạy ba lần như trưóc. Tôi lấy làm lạ nên cố nán lại để quan sát thêm. Thức ăn của thầy vào buổi sáng trưa chiều tối đều có hành tỏi. Tôi không ăn, cũng không nói lời nào, chỉ uống nước. Thầy biết lý do vì sao tôi không ăn cơm nên bảo người trong chùa nấu thức ăn nhưng không bỏ hành tỏi. Khi ấy, tôi mới ăn được. Đến ngày thứ bảy, thầy mời tôi uống trà. Tôi liền hỏi việc thầy xướng lên ba câu giết rồi lạy ba lạy là nghĩa gì. Thầy đáp: “Giết những con quỷ da trắng! Quê quán tôi tại Bảo Khánh, tỉnh Hồ Nam. Cha là quan võ tại thị trấn đó, nhưng đã qua đời. Vì vậy, tôi đi tu, thọ pháp tại núi Phổ Đà, theo hòa thượng Trúc Thiền học đạo. 

Hơn mười năm trước, lúc từ Hồng Kông trở về Tinh Châu, tôi bị người da trắng ngược đãi trên tàu, không thể nhẫn nhịn được, thực hận đến chết chẳng nguôi. Nay, tôi vẽ tranh nơi đây, có rất nhiều người thích đến mua, nên sinh sống không sợ thiếu thốn. Cả hơn mười năm, tăng nhân đi ngang qua đây, thường làm bộ làm dạng, tánh khí kỳ quái, không ai được như Ngài, viên dung vô ngại, nên nay mới nói ra những lời thành thật.”

Tôi khuyên thầy ấy rằng nên xem oán thân đều bình đẳng, nhưng uất khí của thầy vẫn chưa tiêu nổi.

Bịnh của tôi từ từ giảm bớt nên liền cáo từ, nhưng thầy cố giữ tôi ở lại. Tôi kể lại việc đi quyên tịnh tài để xây chùa. Thầy liền cúng dường tiền lộ phí, lương thực, mua vé xe lửa cùng đánh điện tín qua Ngưỡng Quang, báo tin cho cư sĩ Cao Vạn Bang biết trước để ông ta ra ga xe lửa đón tôi. Sau đó, tôi ân cần cáo biệt. Tôi đến Ngưỡng Quang; toàn gia đình họ Cao cùng Tánh Nguyên, giám viện chùa Long Tuyền ra đón tiếp. Tôi ở lại nhà cư sĩ họ Cao, được tiếp đãi ân cần. Cư sĩ nói: “Lão hòa thượng Diệu Liên tuy biết Ngài tu khổ hạnh, nhưng những thập niên qua chưa từng nghe tin tức. Nay nghe Ngài đến, lão Hòa Thượng thật rất vui mừng. Vừa rồi có gởi thư đến bảo rằng lão Hòa Thượng sẽ về lại Đường Sơn để trùng tu chùa Qui Sơn tại Ninh Đức.”

Vài ngày sau, tôi đi thăm tháp Đại Kim ở Ngưỡng Quang (Miến Điện). Tham quan các thánh cảnh xong, tôi liền cáo từ, vội trở về nước vì e sợ lão hòa thượng Diệu Liên đang đợi chờ. Cư sĩ họ Cao đưa tôi ra ga xe lửa và đánh điện tín về chùa Cực Lạc tại đảo Tân Lang để ra đón tôi.

Khi vừa đến bến, vì trên tàu có người chết do bịnh dịch hạch, nên một lá cờ màu vàng “Đả Hạn” được trương lên. Những người trên tàu đều bị khám nghiệm trên một vùng đồi núi rộng rãi. Hơn ngàn người ở tạm lại trên núi, nhưng không có lều vải chi hết. Ban ngày, bị mặt trời thiêu đốt cháy da. Ban đêm, mưa gió lạnh buốt. Khẩu phần thực phẩm của mỗi người trong một ngày chỉ có một nhúm gạo và hai củ cà rốt. Tất cả phải tự nấu ăn lấy. Bác sĩ đến khám bịnh hai lần một ngày. Đến ngày thứ bảy, khoảng phân nửa số người ở đó được rời núi. Ngày thứ mười, hầu hết mọi người đều rời đảo, duy chỉ còn một mình tôi. Khi ấy, tâm tôi thật khó kiên nhẫn, lại thêm thống khổ vì bịnh tình ngày một gia tăng. Từ từ, tôi không thể ăn gì được. Ngày mười tám, bác sĩ đến, bảo phải khiêng tôi qua một tịnh thất, nơi không ai ở. Tôi vui lên phần nào. Có một ông lão giữ cửa, khi hỏi qua được biết ông là người Tuyền Châu. Ông lão than thở: “Căn phòng này chỉ dành cho những người bịnh sắp chết nằm. Sau khi chết, sẽ bị giải phẩu!”

Tôi nói rõ là muốn đến thăm chùa Cực Lạc. Ông lão cảm động, nói: “Tôi sẽ lấy thuốc cho Ngài uống.”

Ông lão liền lấy một đơn thuốc cho tôi uống trong hai ngày. Bịnh tình thuyên giảm đôi chút. Ông lão lại nói: “Khi bác sĩ đến, tôi ở bên ngoài phòng, ho lên làm hiệu. Lúc ấy, Ngài nên ngồi dậy, phấn chấn tinh thần. Nếu bác sĩ cho thuốc thì chớ có uống.”

Lát sau, quả nhiên bác sĩ đến, đưa thuốc bảo tôi phải uống. Vì không thể cưỡng lại được nên tôi đành phải uống. Bác sĩ vừa đi khỏi thì ông lão đến và hỏi rằng tôi có uống thuốc không. Tôi đáp là đã uống rồi. Ông lão kinh sợ và nói: “Thôi rồi! Ngài chắc khó sống. Ngày mai bác sĩ sẽ đến để mổ thân Ngài. Tôi sẽ cho Ngài uống thêm một đơn thuốc nữa. Chỉ cầu mong Phật Tổ cứu sống Ngài.”

Hôm sau, ông lão đến thăm, thấy tôi đang ngồi dưới đất. Tuy mắt mở to nhưng tôi chẳng thấy gì. Ông lão đỡ tôi dậy, thấy máu chảy đầy mặt đất. Ông cho uống thêm một đơn thuốc, gấp rút giúp tôi thay quần áo, cùng lau chùi sàn nhà sạch sẽ, rồi lại than: “Nếu là người khác, sau khi uống thuốc của bác sĩ cho vào ngày hôm qua, chắc đã bị mổ trước khi trút hơi thở cuối cùng rồi. Số mạng Ngài chưa hết, chắc chắn là do chư Phật gia hộ. Lúc chín giờ, bác sĩ sẽ đến nữa. Khi ấy, tôi sẽ ho lên để làm hiệu. Nghe tiếng ho, Ngài nên cố ngồi dậy, phấn chấn tinh thần.”

Khi bác sĩ đến, thấy tôi vẫn còn sống. Ông chỉ ngón tay về hướng tôi rồi cười và bỏ đi. Khi hỏi tại sao bác sĩ lại cười, ông lão đáp là mạng sống tôi chưa dứt. Tôi bảo ông lão là cư sĩ họ Cao có cúng dường tôi một ít tiền. Vậy hãy giúp tôi lấy số tiền này mà tặng cho bác sĩ, để xin ông ta thả tôi ra. Sau đó, tôi liền lấy ra bốn mươi ngàn đồng nhờ đưa cho bác sĩ và hai mươi ngàn đồng để tặng riêng như một món quà để đáp đền những gì ông lão đã giúp đỡ. Ông lão nói: “Tôi không thể lấy tiền của Ngài được. Hôm nay, sẽ có bác sĩ người tây phương đến nên không thể thương lượng. Ngày mai, bác sĩ sẽ là người Cát Lãnh. Lúc đó mới có thể bàn chuyện được.”

Chiều hôm đó, ông lão đến và bảo: “Tôi đã nói chuyện với bác sĩ người Cát Lãnh và đã đưa cho ông ta hai mươi ngàn đồng rồi. Ngày mai, Ngài sẽ được thả ra.”

Nghe thế, tôi rất an tâm, liền cảm tạ ông lão. Ngày kế, bác sĩ đến, khám xong, liền sai người đem ghe ra đưa tôi vào đất liền. Ông lão đỡ tôi lên ghe. Lúc đến bờ thì họ mướn xe chở tôi đến chùa Quảng Phúc. Vì thấy hình dạng gầy gò quái dị, nên thầy tri khách để mặc tôi ngồi cả hai giờ. Tự dưng tâm tôi khởi niềm buồn vui lẫn lộn. Vui vì không chết dưới tay của người ngoại quốc. Buồn vì thầy tri khách không làm tròn bổn phận. Cuối cùng, một lão già bước ra. Đó là thầy thủ tọa Giác Không. Tôi tự xưng là Hư Vân, rồi cúi đầu đảnh lễ. Lạy xuống rồi nhưng không đủ sức để đứng dậy, nên thầy thủ tọa liền đỡ tôi đứng dậy và nói: “Cư sĩ họ Cao đã đánh điện tín hơn hai mươi ngày mà không biết tin tức của thầy chi hết. Lão hòa thượng Diệu Liên cùng toàn thể đại chúng đều lo lắng cho thầy. Tại sao thân thể thầy ra nông nỗi này?”

Khi ấy, tất cả tăng chúng đều ra đến đầy cả điện đường. Trong phút chốc, tôi cảm giác nắng ấm mùa xuân tràn đầy khắp gian phòng. Lát sau, lão hòa thượng Diệu Liên bước vào và nói: “Ngày ngày trông mong tin tức. Sợ con gặp hiểm nạn. Thầy muốn trở về Phước Kiến để trùng tu lại chùa Qui Sơn, nhưng nghe con sắp đến đây nên mới nán ở lại.”

Tôi đáp: “Đệ tử tội nặng. Cúi xin thầy từ bi tha lỗi!”

Sau đó, tôi lược thuật lại sự tình. Lão Hòa Thượng cùng đại chúng đều kinh ngạc và vui mừng, chấp tay niệm Phật, rồi đồng trở về chùa Cực Lạc. Lão Hòa Thượng lại bảo tôi hãy nên uống thuốc. Tôi thưa: “Con đã trở về nhà, vọng niệm đều dứt sạch, nghỉ ngơi vài ngày thì bịnh chắc sẽ khỏi.”

Sau nầy, lão Hòa Thượng thấy tôi mỗi lần ngồi thiền suốt cả vài ngày nên răn dạy: “Khí hậu ở Nam Dương nóng nực, không như ở trong nước, ngồi thiền lâu e sợ hại đến thân.”

Tuy nhiên, tôi không cảm thấy như thế. Lão Hòa Thượng lại bảo tiếp: “Con nên giảng kinh Pháp Hoa ở đây để kết duyên. Thầy phải trở về nước. Sau khi giảng kinh xong, chớ vội về Vân Nam, hãy đến núi Cổ Sơn, vì thầy còn một việc muốn nói với con.”

Đưa lão Hòa Thượng lên tàu xong, tôi trở về chùa khai giảng kinh. Vài trăm người thọ giới quy y với tôi. Các vị hộ pháp tại Malacca thỉnh tôi đến đình Thanh Vân giảng kinh Dược Sư. Tôi qua Kuala Lumpur, được cư sĩ Diệp Phật Hữu, Vạn Vân Phàm v.v…, thỉnh đến chùa Linh Sơn giảng kinh Lăng Già. Tại các pháp hội giảng kinh, người thọ giới quy y có đến hơn mười ngàn người.

Mùa đông, toàn thể tăng chúng tỉnh Vân Nam đánh điện tín bảo là chính phủ hiện tại đang kê khai tài sản chùa chiền. Ngài Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay) cũng gởi điện tín qua, mời tôi quay về nước gấp để cùng nhau bàn tính chuyện giải quyết vấn đề. Vì cuối năm, nên tôi ở lại Kuala Lumpur qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 32, 67 tuổi. (1906/07)

Mùa xuân, tôi trở về nước. Khi tàu ghé Đài Loan, tôi đến tham quan chùa Linh Tuyền. Đến Nhật Bổn, tôi viếng thăm các danh lam thắng cảnh, chùa tháp. Lúc ấy, chánh phủ Trung Hoa và Nhật Bổn có sự hiềm khích nên chư tăng người Nhật không được qua Trung Quốc, còn chư tăng người Hoa ở Nhật thì lại bị dòm ngó. Vì thế ước muốn liên hợp tín đồ Phật giáo Trung-Nhật của tôi bị trì hoãn.

Tháng ba, tôi trở về nước, cùng các đại biểu hội Phật giáo trong nước và đại sư Kỳ Thiền v.v…, đồng lên Bắc Kinh dâng thư thỉnh nguyện. Khi đến Bắc Kinh, chúng tôi trú tại chùa Hiền Lương. Ty tăng lục, thầy Pháp An chùa Long Tuyền, thầy Đạo Hưng, Giác Quang chùa Quán Ấm v.v…, đồng đến tiếp đón chúng tôi. Túc Thân Vương Thiện Kỳ thỉnh tôi thuyết giới pháp cho vợ ông. Các vương công đại quan, thân hữu quen biết tôi vào thời hộ giá chạy loạn cũng đến viếng thăm. Khi bàn cách thức dâng chiếu thỉnh nguyện thì chúng tôi được các vị hộ pháp trợ giúp rất nhiều. Thế nên, mọi việc đều thuận lợi. Sau khi dâng chiếu thỉnh nguyện xong, Hoàng Đế liền ra sắc dụ như sau:

“Quang Tự năm thứ ba mươi hai. Trong sự quyên góp, xưa đã ban dụ chỉ, không cho phép các vị quan to ỷ quyền thế, hà hiếp quấy nhiễu dân nghèo. Nhưng gần đây, nghe các vị Biện Lý ở các tỉnh, đang hà hiếp quấy nhiễu dân lành, thậm chí còn đi ra ngoài, đến các chùa chiền quyên góp nữa. Những việc như thế, không thể chấp nhận được. Nay ra chiếu chỉ cho các tỉnh phủ, phàm có các chùa viện lớn nhỏ cùng tất cả tài sản của tăng chúng đều phải do các quan địa phương bảo hộ, không được điêu ngoa đố kỵ chiếm lấy, tạo nên mầm mống nhiễu loạn. Chính quyền địa phương, không được thâu góp quyên tổn tài sản tăng chúng, phải giữ lễ đoan chánh. Khâm Thử.”

Sau khi chiếu dụ ban ra, sự niêm phong tài sản tự viện ở các tỉnh liền chấm dứt.

Tại Bắc Kinh, tôi nói với các vị hộ pháp rằng bắt đầu từ triều Thanh, tỉnh Vân Nam chưa từng được ban Đại Tạng kinh. Nay, tôi muốn dâng chiếu thỉnh toàn bộ Đại Tạng Kinh, để cho vùng biên địa được thấm nhuần mưa pháp. Được sự bảo hộ của Túc Thân Vương, Thiện Kỳ, chiếu thỉnh nghị do đại quan tổng quản nội vụ dâng lên như sau:

“Theo lời của Ngài tăng lục, đại sư Pháp An, thì tỉnh Vân Nam, phủ Đại Lý, huyện Tân Châu, núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, phương trượng trụ trì tăng nhân hiệu Hư Vân trình xưng rằng chùa vốn là đạo tràng thắng hội của tổ Ma Ha Ca Diếp, thuộc hàng danh lam thắng cảnh, và là ngôi phạm sát cổ xưa trong nước, nhưng lại thiếu Đại Tạng kinh. Nay, cầu thỉnh Đại Tạng kinh, hầu mong vĩnh viễn cung kính phụng thờ, sùng hưng Phật pháp.

Chiếu thỉnh cầu này do quan thượng thư chánh bộ Túc Thân Vương, đại sư Trừng Hải trụ trì chùa Bách Lâm, đại sư Đạo Hưng trụ trì chùa Long Hưng v.v…, cùng dâng biểu. Nếu như được chấp thuận, xin quan nha môn truyền bảo ty tăng lục lo việc ban chuyển Đại Tạng kinh, phụng theo thỉnh dụ trên đây. Thỉnh chỉ.”

Ngày sáu tháng sáu, Quang Tự năm thứ ba mươi ba, dụ được phê chuẩn như sau:

“Thượng dụ, tỉnh Vân Nam núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, được ban tặng, đổi hiệu là Hộ Quốc Chúc Thánh thiền tự, lại ban cho một bộ Đại Tạng kinh, tăng y màu vàng tím, bát cụ, cùng ngọc ấn Hoàng Đế và tích trượng Như Ý cho đại sư phương trượng, vì có công hộ giá Hoàng Đế lúc tao loạn. Lại ban hiệu cho đại sư trụ trì, Hư Vân là đại sư Phật Từ Hồng Pháp, phụng chỉ trở về núi truyền giới, hộ trì quốc gia, làm việc hữu ích cho nhân dân. Đại quan nội vụ nên báo cho đại sư Hư Vân, đem các vật trên, trở về núi, vĩnh chấn sơn môn, vì việc thiện mà ban bố giáo lý Phật Đà. Quan dân địa phương, tất cả phải phụng chỉ, nhớ rõ mà hộ trì Phật pháp, chớ có khinh thường. Khâm Chỉ.

Quang Tự tháng bảy, năm thứ ba mươi hai.”

Việc thỉnh Đại Tạng kinh như thế đã tạm yên. Ngày hai mươi tháng sáu, tôi nhận được thư của lão hòa thượng Diệu Liên, viết: “Lúc khởi hành thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, trước tiên con hãy đến cửa ải Hạ Môn, đi Nam Dương, rồi từ đó vào đất Vân Nam. Tại Hạ Môn, con nên lưu lại, trở về Cổ Sơn gặp thầy gấp.”

Sau đó, tôi chuẩn bị vận chuyển Đại Tạng kinh đi về Nam. Chư vị hộ pháp ở Bắc Kinh trợ giúp rất nhiều. Gần cuối năm, nên tôi ở lại Bắc Kinh qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 33, 68 tuổi. (1907/08)

Tháng giêng, tôi vận chuyển Đại Tạng kinh rời Bắc Kinh. Đầu tiên, đến Thượng Hải và Hạ Môn. Trên đường đi, nhờ sự giúp đỡ của hai thầy Văn Chất tại núi Phật Đảnh và Chuyển Đạo tại cung Dưỡng Chân rất nhiều. Khi đến Hạ Môn, tôi nhận được điện tín cấp báo từ Cổ Sơn gởi tới, bảo rằng lão hòa thượng Diệu Liên tại chùa Quy Sơn đã viên tịch vào tháng giêng. Lúc ấy, chư sơn trưởng lão cùng tăng chúng ở Hạ Môn đến Cổ Sơn tham gia lễ trà tỳ của lão hòa thượng Diệu Liên. Từ chùa Qui Sơn, linh tháp lão Hòa Thượng được dời về Hạ Viện Cổ Sơn để tiện việc lễ táng. Tôi tức tốc quay về Cổ Sơn, kiến lập Tháp Tổ cùng truyền giới U Minh v.v…, bận rộn ngày đêm.

 Ngày mười tháng tư, làm lễ nhập tháp. Lúc vừa xây tháp xong, trời đổ mưa to, ròng rã cả nửa tháng. Toàn thể đại chúng đều ưu buồn. Ngày mồng tám, truyền giới Bồ Tát xong, trời bắt đầu tạnh mưa. Ngày mồng chín, trời trong mây tạnh; quan dân sĩ thứ đến núi dự lễ an táng đều cảm duyên nơi đạo. Ngày mồng mười, lúc làm lễ nhập tháp, trăm bàn thức ăn chay tịnh được sắp ngoài trời để cúng lễ. Đại chúng cùng tụng kinh. Đang cúng Ngọ, niệm đến chân ngôn biến thực, bỗng đâu một ngọn gió cuồn cuộn, thổi bay tất cả thức ăn tế phẩm lên trên trời. Từ linh cữu phóng ra một luồng hào quang màu đỏ sáng tỏ, bay thẳng vào trên đảnh tháp. Đại chúng đều vui vẻ tán thán. Lễ nhập tháp xong, toàn thể đại chúng trở về chùa thì trời đổ mưa to dầm dề. Xá Lợi của lão hòa thượng Diệu Liên được phân làm hai phần: Một phần để vào trong tháp. Một phần đem đến chùa Cực Lạc ở Nam Dương để thờ.

Lúc phụng chuyển Đại Tạng kinh cùng xá lợi của cố lão Hòa Thượng đến Penang, Mã Lai Á, đại chúng cùng chư tăng đình Quán Ấm tới đón tiếp cả vài ngàn người. Đang tụng kinh, niệm đến chân ngôn biến thực thì lại một luồng gió cuồn cuộn, thổi bay hết tất cả bông hoa cúng dường. Từ nơi linh cữu phóng ra một luồng ánh sáng trắng, bay thẳng đến đỉnh tháp, cả ngoài hai dặm. Tôi làm pháp chủ hai buổi lễ nhập tháp, mắt thấy tai nghe, tường tận chứng kiến. Phật nói: “Người hành mật hạnh thật khó nghĩ bàn.”

Nói về sự tu trì của lão hòa thượng Diệu Liên lúc còn sống, tôi không biết được nhiều. Lão Hòa Thượng không tu thiền hay tịnh độ, duy chỉ cất chùa lập viện, tiếp độ tăng chúng để kết duyên. Nhân duyên sau cùng khi làm lễ nhập tháp, thực rất kỳ lạ. Sau khi xuống tóc xuất gia, tôi đi chu du khắp bốn phương, đã lâu lắm rồi chưa được dịp hầu hạ Ngài. Lại cả bao thập niên, không thư từ thưa hỏi, phụ bạc ân Thầy. Nhân duyên cuối cùng với lão Hòa Thượng, là việc tôi có phước phần lo liệu lễ táng linh cữu tháp tự, cùng đặt để phân chia xá lợi. Nhớ đến việc, dặn bảo tôi lần sau cùng lúc trước, chứng tỏ Ngài biết được ngày giờ lâm chung. Thật khó mà biết đúng sự thật. Tôi chỉ lược thuật sự thật trong hiện tại, còn việc chứng minh thì để người sau tự kết luận lấy.

Kế tiếp, tôi đi tàu đến đình Quán Ấm, được thỉnh giảng Tâm Kinh. Sau đó, đón tàu khác đi Xiêm La (Thái Lan). Trên tàu không có thức ăn chay. Tôi ngồi thiền suốt cả ngày. Một người Anh, đi qua chỗ tôi ngồi, ngó vài lần rồi nói: “Bạch Hòa Thượng! Ngài đi đâu vậy?”

Nghe ông ta nói tiếng Hoa, tôi đáp: “Tôi đi Vân Nam.”

Lúc ấy, ông ta liền mời tôi lên phòng tàu, lấy bánh và sữa ra mời, nhưng tôi nhã nhặn từ chối.

Ông hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Nơi Vân Nam, Ngài ở vùng nào vậy?”

Tôi đáp: “Tôi ở tại chùa Ngưỡng Dương, núi Kê Túc.”

Ông nói: “Quy củ của chùa ấy rất nghiêm ngặt.”

Tôi hỏi: “Ông làm việc gì ở đó?”

Ông trả lời: “Tôi là quan lãnh sự ở Côn Minh, Đằng Xung. Tôi có đến tham quan tự viện nơi đó.”

Ông lại hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài đi ra nước ngoài để làm gì?”

Tôi đáp: “Trên đường vận chuyển Đại Tạng kinh trở về Vân Nam, vì thiếu tiền lộ phí, nên tôi phải đi qua Kuala Lumpur (Mã Lai Á) để hóa duyên, quyên góp tịnh tài.”

Ông hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài có đem theo công văn không?”

Tôi lấy công văn chứng cứ và ngân phiếu ra cho ông ta xem. Ông liền viết một ngân phiếu ba ngàn đồng cúng dường cho tôi. Thật là một thiện duyên kỳ lạ. Sau đó, ông ta mời tôi ăn cơm chay gồm có cơm chiên với rau cải. Khi tàu cập bến tại Xiêm La, chúng tôi chia tay tạm biệt.

Tôi trú tại chùa Long Tuyền, giảng kinh Địa Tạng. Trong lúc giảng kinh, ông ta đến chùa gặp tôi, cúng dường ba ngàn đồng. Để xây điện thờ Đại Tạng kinh, cần phải có một số tiền cả hơn vài ngàn đồng. Trước khi ông lãnh sụ cúng dường, tôi chỉ quyên được chút ít thôi. Sau khi giảng kinh Địa Tạng xong, tôi lại tiếp tục giảng phẩm Phổ Môn. Thính giả có đến vài trăm vị.

Ngày nọ, khi đang ngồi thiền, tôi bỗng dưng nhập định, quên rằng mình đang giảng kinh. Tôi nhập định suốt bảy ngày. Tin này lan tràn cả thủ đô Xiêm La. Từ Quốc Vương, đại quan, cho đến thiện nam tín nũ, đều đến lễ bái. Sau khi xuất định, giảng kinh xong, Quốc Vương thỉnh tôi đến hoàng cung thiết lễ cúng dường, chí thành quy y. Quan thân sĩ thứ cùng dân chúng quy y tôi cả vài ngàn người. Sau khi xuất định, chân tôi bị tê liệt, đi đứng không nỗi. Kế đến, toàn thân tê cứng như cây khô, không thể nói năng chi được. Ắn phải nhờ người đút. Chư hộ pháp mời bác sĩ đông tây đến chữa trị, châm cứu uống thuốc, nhưng vô hiệu quả. Thậm chí, miệng không nói được lời nào, mắt không thấy chi. 

Các bác sĩ đều bó tay chịu thua. Tuy vậy, thân tâm tự tại, không chút đau khổ, buông xả hết mọi việc, duy chỉ còn một việc chưa yên lòng là trong áo tôi còn một ngân phiếu, không ai biết cả. Miệng không thể nói. Tay không thể viết. Lúc nhắm mắt, thân này được hỏa táng thì ngân phiếu đó chắc cũng sẽ bị đốt luôn. Đại Tạng kinh không thể đem về Vân Nam, điện các tại núi Kê Túc không thể kiến lập. Nhân quả này bút mực nào viết cho hết được. Nghĩ đến đó, nước mắt tuôn trào, thầm lặng cầu mong tôn giả Ma Ha Ca Diếp gia hộ. Lúc ấy, có thầy Diệu Viên là pháp hữu tại núi Chung Nam thuở xưa, thấy tôi rơi lệ, miệng nhấp nháy, liền kê tai gần miệng để lắng nghe. Ra hiệu nhờ thầy đem trà cho tôi uống. Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Uống trà xong, thân tâm lắng trong, liền nhập mộng, thấy một lão tăng tướng mạo giống Ngài Ma Ha Ca Diếp, ngồi kế bên chỗ tôi nằm, lấy tay phải xoa đầu và bảo: “Nầy Tỳ Kheo! Y bát chớ để xa thân. Thầy đừng quá ưu sầu. Hãy lấy y bát lót đầu nằm, rồi mọi việc sẽ an lành!”

Nghe xong, tôi liền đưa tay lấy y bát làm gối nằm, rồi xoay đầu lại thì không thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp đâu cả. Lúc đó, toàn thân đều toát mồ hôi. Thân tâm khỏe khoắn, an lạc không lời chi diễn tả. Tôi lại nói được chút ít. Nhờ thầy Diệu Viên đến trước điện Hoa Đà cầu thuốc uống, nhưng chỉ được hai vị Mộc Trát và Dạ Minh Sa. Lúc ấy, mắt tôi mở ra chút ít, nói chuyện lại được. Lại cầu thêm một toa thuốc nữa, chỉ được vị Xích Tiểu Đậu. Lấy đậu nầy nấu với cháo mà ăn. Không được dùng thức ăn cứng. Ắn như thế hai ngày, đầu động đậy được đôi chút. Lại cầu nguyện xin thuốc, vẫn là vị Xích Tiểu Đậu. Từ đó, lấy đậu này nấu với cháo mà ăn. Đại tiểu tiện đều thông. Ra phẩn đen ngòm. Từ từ, thân thể cảm giác đau chút ít. Có thể ngồi, và có thể đi. Bịnh tình như thế trước sau, trải qua hơn hai mươi ngày. Thật đa tạ đại chúng, đã mệt thân phí sức vì tôi. Thầy Diệu Viên ngày đêm túc trực lo lắng. Tôi thật cảm ân hết sức. Tôi lễ tạ Bồ Tát Hoa Đà; nguyện sau này sẽ xây cất điện già lam để thờ Ngài. Tôi lấy vài thẻ, tất cả đều được như ý.

Bịnh tình thuyên giảm, tôi tiếp tục giảng luận Đại Thừa Khởi Tín. Giảng vừa xong, hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt từ chùa Cực Lạc ở Penang đến đón tôi về. Quốc Vương, đại thần, cư sĩ hộ pháp, thiện nam tín nũ trong thủ đô Xiêm La đều đến tiển đưa, cúng dường số lớn tịnh tài. Lúc trước, khi tôi đến hoàng cung làm Phật sự, Quốc Vương Xiêm La cúng dường ba trăm mẫu đất tại Đổng Lý. Tôi giao khoảnh đất này cho hòa thượng Thiện Khánh ở chùa Cực Lạc, Penang, và yêu cầu Ngài lập một cơ xưởng làm cao su. Tôi cùng với hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt ở lại vùng đất sắp lập cơ xưởng đó qua năm mới.

Quang Tự năm thứ 34, 69 tuổi. (1908/09)

Mùa xuân, từ Đổng Lý, tôi cùng hòa thượng Thiện Khiêm đến thăm lâu các Quán Ấm tại Tuyết Lan Nga. Đạo tràng này chính tay thầy Thiện Khiêm lập ra. Sau đó, tôi tham quan các danh lam thắng cảnh tại Dị Bảo và Phính Lịch, rồi trở về chùa Cực Lạc, giảng luận Đại Thừa Khởi Tín, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Trong những pháp hội giảng kinh, chư thiện nam tín nữ đến quy y rất nhiều. Tôi dành rất nhiều thời giờ để tiếp chuyện với họ cả ngày. Nơi chùa Cực Lạc, lúc giảng kinh xong, tôi liền bế quan nhập thất, tạm đình chỉ việc giảng kinh cùng tiếp đãi khách khứa. Tôi ở qua năm mới tại chùa.

(Đại sự trong năm: Ngày mười một tháng mười, Hoàng Đế băng hà, lập miếu hiệu là Đức Tông. Ngày hai mươi hai, thái hậu Từ Hi băng hà.)

Tuyên Thống nguyên niên, 70 tuổi. (1909/10)

Từ Penang, Mã Lai Á, tôi bắt đầu khởi hành vận chuyển Đại Tạng kinh. Khi đến Ngưỡng Quang (Miến Điện), cư sĩ Cao Vạn Bang ra tiếp đón, lưu giữ tôi ở lại nhà ông hơn cả tháng. Đích thân ông đưa tôi đi Ngõa Thành. Tại Ngưỡng Quang, Cao cư sĩ thỉnh một tôn tượng Phật nằm, định mang về chùa Chúc Thánh thờ phụng. Khi tàu đến Tân Nhai, tôi ghé lại đình Quán Ấm, thuê người ngựa đi về núi Kê Túc. Vì kiện vật quá nặng, ngựa không thể chở hết và lại không thể thuê người thêm, nên tạm để tượng Ngọc Phật lại đình Quán Ấm, vài năm sau sẽ thỉnh về núi. Cao cư sĩ lưu giữ tôi lại hơn bốn mươi ngày, tự thân lo liệu sắp đặt việc chuyển vận, cúng dường tiền tài, sức lục. Cử chỉ ông rất chân thành, thật là hiếm có.

Người ngựa đồng hành; đi qua các trấn như Đằng Xung, Hạ Quan đều được dân chúng vui vẻ tiếp đón. Tuy đi hơn cả mười ngày mà người ngựa đều bình an. Chỉ có một lần, khi từ Hạ Quan vào Đại Lý thì sét đánh, hồ Nhĩ Hải nổi sóng to, mây khí biến chuyển, tạo khung cảnh rất kỳ đặc, nhưng lại không mưa. Vừa đến cổng chùa gần hồ Nhĩ Hải thì làm lễ nghinh tiếp Đại Tạng kinh. Sau khi Đại Tạng kinh được chuyển vào chùa an toàn thì trời đổ mưa to dầm dề cho đến hôm sau mới tạnh. Dân chúng cho là lão rồng hồ Nhĩ Hải đến nghinh đón Đại Tạng kinh. Lúc ấy, có tổng tỉnh trưởng Lý Kỉnh Hy của tỉnh Vân Nam và Quý Châu, phụng theo chiếu chỉ Hoàng Đế, phái tùy viên đến Đại Lý, thống lãnh quan dân sĩ thứ tiếp chiếu chỉ nghinh đón Đại Tạng kinh. Họ mắt thấy những việc kỳ lạ này, đồng tán thán Phật pháp thật vô biên. Nghỉ ngơi tại Đại Lý mười ngày, rồi từ Hạ Quan, Triệu Châu đến huyện Tân Xuyên, đi thẳng về chùa Chúc Thánh, một mạch bình an, không một giọt mưa thấm ướt hòm đựng Đại Tạng kinh. Cuối cùng, Đại Tạng kinh được chuyển vào điện các. Đến ngày ba mươi tháng chạp, chùa Chúc Thánh tổ chức hội hương lễ. Hàng chục ngàn người đến dự, đều vui vẻ tán thán điềm lành, thật chưa từng có.

Trong khi thỉnh kinh về núi, có một việc đáng ghi nhận:

Lúc tôi đi ngang qua Đằng Xung, ghé lại chùa Vạn Thọ, đang cùng ngồi đàm đạo với đề đốc Trương Tùng Lâm, bỗng đâu một con bò vàng chạy đến, quỳ xuống, hai mắt rơi lệ. Chạy theo sau là chủ của nó, tên Dương Thắng Xương, cùng nhiều người khác. Được biết ông Dương Thắng Xương, là người chuyên giết bò. Tôi quay về hướng con bò đó và nói: “Nếu con muốn chạy trốn để sống thì phải quy y Tam Bảo!”

Bò liền gật đầu. Tôi thuyết Tam Quy Y, rồi đỡ nó đứng dậy. Bò thuần thục nghe theo như người vậy. Tôi lấy tiền ra đưa cho chủ bò, nhưng ông ta không nhận. Cảm động việc kỳ lạ này, ông chủ bò thề nguyền rằng sẽ đổi nghề khác, và thỉnh cầu quy y cùng ăn chay trường. Đề đốc Trương Tùng Lâm cảm kích việc này nên nhận ông chủ bò làm việc tại một khách sạn.

Tuyên Thống năm thứ 2, 71 tuổi. (1910/11)

Từ khi chiếu vua ban ra, ngăn cấm quan quân thâu lấy tài sản chùa chiền, cùng thỉnh được Đại Tạng Kinh về núi, tăng già toàn tỉnh tạm sống an ổn. Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, Lý Kỉnh Hy, phái tùy viên đến thăm viếng và bảo toàn gia quyến đến chùa làm lễ quy y, tặng rất nhiều lễ vật. Tôi thỉnh thầy Giới Trần ra thất. Lại cố khuyên răn tăng chúng trên núi phải tôn trọng giữ gìn giới luật cẩn trọng. Đề xướng giáo dục thanh niên, dẹp trừ tập khí xấu xa, phấn chấn đạo phong núi Kê Túc. Thương lượng quan huyện Tân Xuyên thả các thầy bị nhốt trong tù cùng các tù nhân nhẹ tội.

Mùa hạ, từ Cổ Sơn chuyển đến một bức thư gia đình tại Tương Lương. Chốc đó mà đã năm mươi năm kể từ lúc xuất gia. Tôi viết ba bài thơ, trong đó có câu:

“Kính ai một đời nghiệp thanh tịnh

Nơi tâm cảnh chẳng dính mãi trần

Lâu rồi quên hẳn việc thế gian,

Hãy trông chừng tập khí nơi đất tâm.”


Lúc ấy, cư sĩ Hàn Vĩnh Xương, tổng bí thư chánh phủ đương thời, sau khi đọc bài thơ của tôi, liền khắc lên đá cuộc đời của tỳ kheo ny Diệu Tịnh cùng bài thơ lưu kệ của bà.

(Lưu kệ ký của tỳ kheo ni Diệu Tịnh:

Tỳ kheo ny Diệu Tịnh, tên tục Vương Thị, là mẹ kế của Vân Công (hòa thượng Hư Vân). Vân Công pháp danh Cổ Nghiêm tự Đức Thanh hiệu Hư Vân, người Tương Lương, tỉnh Hồ Nam, tên tục là Trai, thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế. Cha tên Ngọc Đường, làm quan tại phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến. Mẹ họ Nhan, tuổi ngoài bốn mươi mà chưa có một mụn con, nên cầu nguyện Bồ Tát Quán Ấm, ban con cho. Cha mẹ mộng thấy một vị trưởng lão mặc y màu xanh, đầu đội tượng Quán Ấm, thân cỡi hổ, nhảy lên giường nằm. Mẹ kinh sợ tỉnh dậy, nghe mùi hương lạ bay khắp phòng, liền thọ thai Vân Công. Sau đó sanh ra một bọc thịt. Mẹ Ngài thất vọng ê chề, uất khí mà mất.

 Hôm sau, một lão bán thuốc đến nhà, lấy dao rạch bọc thịt ra được một bé trai trân quý chính là Vân Công. Từ đó Ngài được người mẹ kế săn sóc nuôi nấng. Vân Công tánh vốn không ăn thịt. Khi lớn lên, được học hành nhưng không thích Nho giáo mà chỉ thích giáo lý nhà Phật, làm cha không vui, nên bị nghiêm trách. Năm mười bảy tuổi, theo định ước, cha cưới hai cô gái là Điền Thị và Đàm Thị, nhưng Vân Công chưa hề nhiễm sắc dục. Ngài trốn lên núi Cô Sơn, tỉnh Phúc Kiến, lễ hòa thượng Diệu Liên làm thầy xuống tóc xuất gia. Đồng Trị năm thứ ba, cha qua đời. Bà mẹ kế dẫn hai cô dâu đi tu. Điền Thị bị bịnh phổi, ho ra máu. Bà tu được bốn năm thì bị chết vì bịnh. Đàm Thị vẫn còn sống, làm sư cô tại núi Quán Ấm huyện Tương Lương, pháp danh Thanh Tiết. Trong thơ gởi cho Vân Công, bà cho biết là ngày mồng tám tháng chạp năm Kỷ Dậu (1909/10) người mẹ kế ngồi xếp bằng, viết bài kệ rồi thị tịch, vãng sanh cõi tây phương Cực Lạc.)



Có phản hồi đến “Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân - Phần 2”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com