Chùa Vạn Đức hiện tọa lạc tại số 502 tỉnh lộ 43, khu phố 5, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, TPHCM. Trước năm 75, thuộc địa phận tỉnh Gia Định, chùa nằm cách trung tâm Thành Phố khoảng 15 km, cách chợ Thủ Đức khoảng 2 km, cách xa lộ vòng đai khoảng gần 1km tính từ ngã tư Gò Dừa đi vào. Chùa do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh khai sơn vào năm 1954 (Giáp Ngọ). Hòa Thượng thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41, đệ tử của Hòa Thượng khai sơn chùa Vạn Linh núi Cấm, Châu Đốc Thượng Thiện Hạ Quang, Hòa Thượng hiện là chủ tịch HĐTSTWGHPGVN. Năm nay (2006), Hòa Thượng trụ thế đã chín mươi năm mà tình trạng sức khỏe vẫn tương đối tốt, sinh hoạt bình thường, còn trực tiếp điều khiển Giáo Hội. Mỗi tháng hai lần còn truyền giới Bát quan trai cho đại chúng tu tập được nhiều lợi lạc. (Chùa Vạn Đức được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập các kỷ lục “Ngôi chùa có chánh điện cao nhất Việt Nam” (43.5m)  và “Bức phù điêu cây bồ đề đắp nổi lớn nhất Việt Nam”.

Xem thêm:

Thân Thế Và Sự Nghiệp Hoằng Dương Đạo Pháp Của HT Thích Trí Tịnh

Chùa có nguồn gốc từ một ngôi nhà xưa, của một gia đình phong lưu hiến cúng sửa lại làm chủ, được gọi là “cải gia vi tự”. Ngược dòng thời gian, vào năm 1946, Hòa Thượng khai sơn chùa Vạn Linh núi Cấm, Châu Đốc, do chiến tranh phải xuống núi về chùa Linh Bửu ở Cầu Bông lánh nạn. Đến ngày 26 tháng 11 năm Quý Tỵ (1953), Hòa Thượng an nhiên thị tịch tại đây và được vị đệ tử tại gia xin đưa về an táng tại đất thổ mộ của gia đình bà. Vị đệ tử đó thường được gọi là bà Ba Hộ, tên Nguyễn Thị Tánh, pháp danh Diệu Tuyết. Rằm tháng giêng năm Giáp Ngọ (1954) là lễ chung thất, Hòa thượng Vạn Đức từ chùa Linh Sơn, Vũng Tàu về tham dự lễ, đồng thời đến đây để viếng mộ tôn sư, vì trong thời gian tang lễ, Hòa thượng đang nhập thất nên không về dự tang được. Nhân đây, bà ba Hộ đã phát tâm cúng dường toàn bộ đất và ngôi nhà lớn tọa lạc trên đó cho Hòa thượng.

 Ngôi nhà này nguyên là của ông Nguyễn Văn Do, chú ruột thứ sáu của bà ba Hộ. Sau khi ông sáu mất không người thừa kế, bà Ba là cháu ruột nên được đứng chủ quyền. Trước đây, khi Hòa thượng khai sơn chùa Vạn Linh còn sanh tiền có đến ngôi nhà và khu đất này, Hòa thượng có huyền ký: "Nơi này về sau sẽ trở thành đại già-lam". Khi Hòa thượng nhận ngôi nhà này thì nó đã bị bỏ hoang một thời gian nên bên trong bị hư hại nhiều, bên ngoài thì cỏ dại, mắc cỡ tây um tùm che kín vườn. Sau khi nhận, bắt đầu ngày 16 tháng 03 ÂL, Hòa thượng cho kêu thợ sửa lại nhà. Hòa thượng cho giữ nguyên, hiện nay là Tòng lâm thạch trụ cho ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam. Chùa Vạn Đức sẽ mãi mãi là mái nhà che chở những người con Phật trên lộ trình đi đến giác ngộ giải thoát.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ TRÙNG TU CHÙA VẠN ĐỨC:

Tất cả những cảnh vật ở trên thế gian này đều chịu ảnh hưởng của sự vô thường biến đổi, dù đó là một ngôi chùa. Có cái phát triển lên rồi theo thời gian tàn lụi và mất hẳn, chìm sâu vào quên lãng; có cái mỗi ngày mỗi phát triển và tồn tại đến ngày nay; có cái chỉ còn nhắc nhở trong ký ức hoặc trên sách vở mà thôi. Đó là những trạng thái chung của những cảnh vật hiện diện trên cõi đời này.

Chùa Vạn Đức được hình thành đầu tiên từ một ngôi nhà sửa lại. Sau khi An vị Phật, sinh hoạt tạm ổn, Hòa thượng tiếp tục hoằng hóa. Năm 1955, Hòa thượng thành lập hội Cực Lạc Liên Hữu, khuyến tấn mọi người niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Hòa thượng đã soạn bài Kệ Niệm Phật để các Liên Hữu nắm được tông chỉ mà thực hành.

"Tây Phương Cực Lạc thế giới

Nam Mô A Di Đà Phật

Tin sâu, Nguyện thiết, Hạnh chuyên

Nam Mô A Di Đà

Không gấp cũng không huỡn

Tâm tiếng hiệp khắn nhau

Thường niệm cho rành rõ

Nhiếp tâm là Định học

Nhận rõ chính Huệ học

Chánh niệm trừ vọng hoặc

Giới thể đồng thời đủ

Niệm lực được tương tục

Đúng nghĩa chấp trì danh

Nhất tâm Phật hiện tiền

Tam muội sự thành tựu

Đương niệm tức vô niệm

Niệm tánh vốn tự không

Tâm làm Phật là Phật

Nam mô A Di Đà

Nam mô A Di Đà

Cố gắng hết sức mình

Cầu đài sen thượng phẩm”

Nhân duyên Hòa Thượng thành lập Hội Cực Lạc Liên Hữu là chùa có trồng khóm bông mười giờ. Bông này có đặc điểm là khoảng mười giờ trưa mới nở và xế xế là tàn. Thế mà từ mùng 10 tháng 11 đến 17 tháng 11 ÂL năm Ất Mùi (1955) , khóm bông này nở liên tục cả ngày lẫn đêm, người đến xem rất đông. Ứng điềm lành này, ngày vía Phật A Di Đà 17 tháng 11 Ất Mùi (1955), Hòa thượng thành lập hội. Song song với việc tu học, năm 1956, Hòa Thượng làm thêm nhà Tổ. Năm 1957, tiếp tục xây nhà công quả, khu bếp, giảng đường, Tăng đường. Đến năm 1958 hoàn thành. Đầu Hạ 1959, Hòa thượng khai Trường Hương (An cư Kiết hạ), giảng kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa, đồng thời kiến thiết điện Quan Âm. Đến nay vẫn còn, có tu sửa lại. Đến năm 1963, ngôi nhà do xây dựng quá lâu nên xuống cấp trầm trọng. Sở dĩ chưa sập vì rui mè còn nương gá lẫn nhau. Mới đầu Hòa Thượng định sửa lại nhưng vì quá rệu nên quyết định trùng tu lại toàn bộ. Đây chính là lần trùng tu thứ nhất, được khởi công vào ngày vía Phật A Di Đà 17 tháng 11 năm Quý Mẹo (1963).

Chùa được cất trệt nhưng nhìn vào mặt dựng phía trước với ba lớp mái, giống như một trệt hai lầu, lại thêm hai lầu chuông trống hai bên làm cho chiều ngang chùa tăng thêm kích cỡ. Phía trước chánh điện là ba bộ cửa sắt bông sen bốn cánh, hai cánh chết hai mở. Dàn cửa này chỉ mở vào dịp đầu năm. Trước cửa là năm bậc tam cấp mỗi bậc cao hai tấc nằm khuất trong dãy hành lang xây hình vòm, hai bên là hai căn nhà trống vách nằm dưới lầu chuông trống, mỗi căn vuông vức ba mét cạnh. Từ đó, dẫn vào hai dãy hành lang sâu hút rộng hai mét, giựt cấp lên phía sau. Vì thế đất triền trúc ra phía trước. Cho nên, ngoài trước nền cao khoảng 1m mà sau còn không đầy hai tấc.

Phía trên hành lang lợp ngói âm dương (sau này thay tôn xi măng), còn trên chánh điện, nhà Tổ lợp ngói Tây. Hai lớp mái này cách nhau một lớp vách bởi những bông gió bông sen xây chồng lên hai lớp. Phía trước trên tầng mái thứ nhất, hai bên là hai lầu chuông trống. Vách được xây bằng bông gió bông sen bao quanh một bánh xe pháp luân lớn mười hai căm. Giữa là ba bức phù điêu đức Bổn Sư Thích Ca và hai vị Bồ Tát Quan Âm, Phổ Hiền cũng do nhà điêu khắc Phước Điền tạo (ba bức phù điêu này rất đẹp, màu sắc rất bền đến nay vẫn còn an trí tại). Trên tầng thứ hai là tượng đức Phật A Di Đà cao khoảng 2m20 và trên cùng là một tháp nhỏ bảy tầng. Giữa mái ngói nhô lên một cổ lầu nơi Phật ngự. Bên trong chánh điện rộng chín mét, vì xây trốn cột nên rất thoáng, rộng. Nền được lót bằng gạch bông màu trơn, lót theo sọc cờ Phật Giáo, chùa dài 30m được chia làm hai phần bằng nhau. Trước là chánh điện,sau là nhà Tổ và trai đường, Phần chánh điện cũng có hai phần: phần thờ và chỗ Hòa Thượng hành lễ 5m, phần đại chúng 10m.

 Phần thờ có ba bàn: giữa là bàn Phật có ba cấp, trên cùng giữa là đức Bổn Sư Thích Ca của chùa cũ, hai bên là hai vị Phật nhỏ hơn do thỉnh cầu của bà Đốc Diệu Phước (thân mẫu cô Viên Thiền) nên năm 1956, có dịp sang Miên, Hòa thượng đã thỉnh về (cột cờ phía trước cũng do vị thí chủ này cúng dường). Trước đức Phật lớn có tượng đức A Di Đà đứng cao chừng tám tấc và Phật nhập Niết Bàn dài năm tấc, bệ giữa thờ Phật sơ sanh cao năm tấc. Đồng thời, bệ này để chưng bông trái, chân đèn, lư hương. Cấp dưới cùng là chuông mỏ. Hai bàn hai bên là thờ đức Quán Âm và Địa Tạng đắp phù điêu bằng thạch cao (đức Quán Âm do người cha là ông Đốc Ý đắp, đức Địa Tạng do người con trai là Quãng Sang làm, đến nay các tượng này đều được thờ lại và đặc biệt các tượng này đều được thếp bằng vàng thật).

Sau lưng đức Phật là bức vách cao 10m, trang trí bằng cây Bồ Đề do nghệ nhân Minh Dung vẽ, ở giữa và trên cùng của phần đại chúng có một thùng Phước điền Tam Bảo cao khoảng tám tấc trên có một lư hương, hai bên để chuông mỏ dưới thấp để sử dụng thường xuyên cho các thời khóa hằng ngày. Chuông mỏ lớn ở trên chỉ sử dụng vào dịp sám hối và các thời cúng ngọ những ngày vía, lễ. Phần nhà Tổ có năm bệ thờ. Giữa là bàn Tổ có hai cấp. Trên an trí khung kiểng vẽ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đứng trên nhánh tre qua sông, trên vai vác gậy có chiếc dép. Tượng cao khoảng 2m (tượng vác gậy có chiếc dép mà đi trên nước, Hòa thượng cho là không đúng với lịch sử. Nếu vác dép thì phải đi trên núi mới đúng, vì sứ thần gặp Ngài đang đi trên núi Thông Lãnh). Bệ dưới để lư hương và cái chuông.

Nhìn vô bên phải, một bàn là thờ Hòa thượng khai sơn chùa Vạn Linh, một bàn nữa là thờ vong nam. Bên trái một là bàn thờ Tăng và một bàn nữa là thờ vong nữ. Hai bên là hai dãy quá đường dài, phía trên đều có nghi thờ cho trang nghiêm. Dưới cùng hai bên là hai phòng nhỏ dành cho Ban chức sự. Giữa là bộ Tợ dành cho Hòa thượng, phía trước cũng có nghi thờ đức Quán Âm. Đó là toàn phần chánh điện, nhà Tổ mà Hòa thượng đã xây dựng trong đợt trùng tu lần thứ nhất, chỉ trong vòng sáu tháng đã hoàn thành, đến 16 tháng 06 năm Giáp Thìn (1964) là làm lễ an vị. Đặc biệt là trong khi xây dựng, Hòa thượng không quyên góp và kêu gọi ai, chỉ tùy hỉ theo sự phát tâm của mọi người. Đến ngày hoàn thành, còn dư được một ít để xây cổng Tam Quan. Chính nơi chánh điện này, ngoài việc giảng dạy và Phật sự các nơi, Hòa thượng cứ mỗi nửa tháng đều truyền giới Bát quan trai và đích thân tụng Bố tát giới cho đại chúng nghe. Đến năm 1996, Hòa Thượng mổ mắt mới nghỉ tụng giới, và truyền giới Bát quan trai đến nay vẫn còn.

Mỗi năm, vào ba ngày vía đức Quán Thế Âm 19/02; 19/06/; 19/09, Hòa Thượng truyền Tam quy Ngũ giới cho Cư sĩ tại gia, đồng thời cũng là dịp cho các vị tập sự công quả được thế phát xuất gia. Lúc Hòa Thượng còn khỏe, ngoài việc đi dạy các nơi, Hòa Thượng có mở lớp tại giảng đường dạy kinh bộ cho chư Tăng tại bổn tự và Tăng Ni trong đạo tràng, đồng thời một lớp do quý Thầy lớn dạy lại cho các chú nhỏ. Nhờ sự hoằng hoá của Hòa Thượng mà mọi người được vô cùng lợi ích. Nhất là chư Tăng Ni, Phật tử, mỗi mùa Hạ tựu và làm lễ tác bạch An cư với Hòa Thượng rất đông, để rồi trở về trú xứ gia công tu tập trong ba tháng. Nhờ vào đức độ của Hòa Thượng mà ai nấy cũng đều tinh tấn. Sau năm 1975 có thêm đạo tràng Pháp Hoa, mỗi Chủ Nhật đầu tháng tụng trọn một bộ. Đạo tràng ngày càng đông, ngồi đầy cả chánh điện lẫn nhà Tổ.

Đến năm 1990, sau 15 năm thống nhất, đất nước đã trải qua thời kỳ biến động khó khăn, bước vào giai đoạn đổi mơí, Hòa Thượng cho xây dựng lại giảng đường, vẫn để nguyên vách cũ, gia cố đế cột, đúc cột mới cặp theo cột gạch cũ. Cứ như thế, xong cây này làm đến cây khác. Xây cao vách lên vì nâng chiều cao trên 5m rồi mới đổ sàng. Phía trên xây thêm làm lầu để kính, chỉ bớt lại hai căn hai đầu nên phía trong cũng rộng và phía trên mái cũng được đúc luôn. Xây xong, Hòa Thượng cho bộ Đại Tạng và Tục Tạng vào. Đó là sự nghiệp cả một đời của Hòa Thượng muốn truyền lại cho đệ tử tôn tiếp nói sự nghiẹp của Hòa Thượng.

Năm 1991, tiếp tục làm lại hai dãy Tăng phòng cũng theo cách thức trên. Phía trên cũng xây thêm hai dãy bằng phía dưới nhưng không ngăn vách và cũng đúc mái. Nhờ hai dãy đó mà bây giờ xây lại chánh điện, dời các bàn thờ qua hai lầu này. Bên phải làm nhà Tổ, bên trái làm chánh điện, vì thế sinh hoạt thời khóa hằng ngày không bị gián đoạn. Năm 1992, tiếp tục làm khu bếp và nhà công quả nữ, cũng đổ sàng và xây phía trên. Dãy lầu này chừa lại hai gian để làm sân phơi đồ và trên mái sử dụng lại cây và ngôi cũ của giảng đường và hai dãy Tăng phòng. Năm 1993, Hòa Thượng cho xây dựng tháp phía sau thất của Hòa Thượng lấy tên là “Phù Thi Tháp”. Tháp này là nơi an trí nhục thân của Hòa Thượng khi mãn duyên hóa độ ở Ta Bà này. Hòa Thượng cho dựng bia phía trước với bài thi:

“Biển khổ mênh mông sóng cuộn trào

Thầy trôi theo sóng hướng bờ vào

Có ai núi được thây nổi ấy

Sớm muộn cùng thầy tắp bờ cao”.

Ý Hòa Thượng cho rằng thân chúng ta như tử thi trôi lênh đên trên biển cả. Nếu chúng ta biết dùng thân đó để tu hành thì sẽ được lên bờ cao, vì biển không chứa tử thi, sớm muộn gì cũng sẽ tắp vào bờ.

Tháp này Hòa Thượng cho xây làm hai phần. Phần trong là tháp ba tầng xây hình tứ giác. Tầng trên cùng khắc 4 chữ “Án” bằng Phạn Văn. Tầng giữa là bốn bức phù điêu khắc hình Hòa Thượng với bốn tiêu đề: “Luôn luôn niệm Phật", “Thêm lớn căn lành”, “Phật Pháp lưu truyền” và “Tâm không trụ trước”. Tầng dưới cùng mặt trước và hai mặt hông là ba bài thơ mà Hòa Thượng sáng tác trong những thời điểm có ghi phía dưới, còn mặt sau để trống, sau này khi Hòa Thượng tịch sẽ đặt mộ bia vào đó. Phía dưới có một miếng đan đậy hờ miệng hầm để sau này đưa kim quan Hòa Thượng an trí trong đó. Phía ngoài tháp là mái che hình lục giác với bốn lớp mái lợp ngói men âm dương màu lục. Hòa Thượng gọi đây là “nhà mát” và Hòa Thượng cũng hay thường ra đó nằm chơi. Tháp này có tường rào bao quanh một vườn mai. Trước cổng tháp có một vườn cây kiểng. Bên trái thất của Hòa Thượng là một vườn tre vàng và bên phải là một xườn sứ cùi. Đó là toàn cảnh chung quanh thất của Hòa Thượng. Thất của Hòa Thượng được xây vào cuối năm 1954 và được tu bổ nhiều lần. Chính nơi đây, Hòa Thượng đã dịch nhiều bộ kinh lớn mà sau cùng là bộ Đại Bửu Tích, Hòa Thượng đã cống hiến trí huệ của mình cho kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam được phong phú, làm vô cùng lợi ích cho đại chúng.

Xây xong tháp, Hòa Thượng cho tu sửa lại Tháp Quán Âm phía trước. Vẫn để nguyên trạng, chỉ dỡ các tầng tháp trên lúc trước làm bằng khung sắt lợp tôn. Nay đúc thành hai lớp mái lợp ngói men. Trên đúc tháp bảy tầng thờ bảy vị Phật và an trí Xá Lợi Phật ở tầng trên cùng. Như vậy, sau năm 75, từ năm 1990, Hòa Thượng đã cho tu sửa lại toàn bộ những công trình phụ của chùa. Đến năm Giáp Thân (2004), Hòa Thượng quyết định đại trùng tu khu chánh điện, nhà Tổ đã trải qua trên bốn mươi mùa mưa nắng nay đã xuống cấp trầm trọng. Do sườn gỗ phía trên để lợp ngói, phần đông là chò và dầu nên không bền lâu được. Lại trần nhà làm bằng lưới mành mành đắp xi măng lên chứ không phải đúc nên cũng thế. Tuy vậy cũng đã tồn tại trên bốn mươi năm. Đồng thời để đáp ứng nhu cầu tu tập của đại chúng ngày càng đông. Ngày 19/02 năm Giáp Thân (2004) là ngày khởi công cho công trình quan trọng này. Quá trình thi công sẽ được trình bày dưới đây:

Chánh điện chùa Vạn Đức hiện nay nếu đi từ chợ Thủ Đức vào đến chợ Tam Hà hoặc đi theo xa lộ Đại Hàn lên đến cầu vượt Bình Phước thì đã thấy từ xa một tòa tháp cao vượt lên các nhà chung quanh với một hoa sen đỏ nổi bật giữa đỉnh tháp. Đến chùa, chúng ta sẽ bước vào cổng Tam Quan mới được xây lại, cẩn đá xanh đủ kích cỡ với 3 lớp mái dán ngói men màu lục. Từ ngoài nhìn vào ai cũng ngỡ là chùa có rất nhiều tầng, nhưng vào bên trong chỉ có một tầng, dưới là thờ Tổ và trai đường, trên thờ Phật với chiều cao trên 20 m. Nếu tham quan theo cầu thang nội bộ phía sau thì chúng ta sẽ lên năm lớp cầu thang inox dẫn vào một mái đúc hình cong, mà phía dưới là bầu trời với trăng sao mây trắng trời xanh. Lên thêm một cầu thang sắt, chúng ta sẽ bước vào phòng thờ Tây Phương Tam Thánh. Ra phía trước hành lang phóng tầm mắt nhìn khắp bốn phương chúng ta sẽ thấy các vùng phụ cận, nhất là thành phố với những tòa nhà vượt lên. Lên thêm một cầu thang nữa, chúng ta sẽ bước vào phòng thờ Xá Lợi Phật với những bộ kinh quý kiếm được nghệ nhân viết trên các vật bé bằng ngà, với những chữ rất nhỏ phải dùng kính lúp mới thấy rõ nét. Đó là tổng thể chánh điện mới của chùa Vạn Đức. Để có được công trình này, chúng tôi đã trải qua một thời gian thi công ròng rã hơn hai năm trời với khoảng gần một trăm người thợ và công sức tài vật của không biết bao nhiêu Phật tử phát tâm.

Không giống như các chùa khác, trước khi xây dựng làm lễ đặt đá rất lớn, mời khách rất đông, chùa Vạn Đức khởi công có tinh cách nội bộ nhưng không kém phần trang nghiêm thành kính. Đúng 06 giờ ngày 19 tháng 02 năm Giáp Thân (2004), chư Tăng Ni đạo tràng vân tập cùng một số Phật tử đạo tràng Bát quan trai, đạo tràng Pháp Hoa đối trước lễ đài tạm đặt giữa khu đất xây dựng tụng một thời kinh, cầu nguyện chư Phật Bồ Tát, Long Thiên Hộ Pháp gia hộ cho công trình được tiến hành tốt đẹp.

Để có được mặt bằng cho ngày khởi công, sau khi cúng Rằm tháng Giêng xong, chúng tôi nhờ nhóm công quả Châu Đốc do Hoằng Trương trưởng nhóm, đã cùng quý Thầy dời các tượng Phật an trí tạm trên hai lầu của hai dãy Tăng phòng. Bên trái thờ Phật, bên mặt thờ Tổ và làm trai đường. Tối 16 là chúng tôi đã có nơi tụng niệm mới mà không gián đoạn ngày nào. Một mặt cho tháo gỡ toàn bộ. Nhóm Châu Đốc đã làm việc cật lực, lớp tháo gỡ, lớp di chuyển. Sau cùng còn phần mặt dựng rất cao, chúng tôi định nhờ xe cẩu tiếp sức, nhưng sau đó hợp ý chung, quyết định làm bằng sức người dưới sự chỉ đạo của Thầy Hoằng Hiển, Thầy cột đầu dây cáp vào chót cây đà sau lưng mặt dựng, đầu kia vào một dây sắt chịu vào các cọc sắt đóng sâu xuống chỗ cây si và được nối với cái ba lăng để chịu dây cho thẳng. Xong cho các anh em đục các chân cột khuyết một bên trong, vì bên trong đã có một khoảng trống lớn dư sức cho toàn bộ mặt dựng nằm xuống mà không vướng chướng ngại. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng các mối đục có thể kéo được, thầy Hiển quyết định cho kéo xuống bằng ba lăng, không cần dùng sức nhiều, toàn bộ đã ngã xuống đúng hướng gây một tiếng động lớn như bom nổ. Thế là chỉ còn dọn dẹp, đập các cây đà lớn để lấy sắt, di chuyển gạch và xà bần, chúng tôi đã có được mặt bằng trước ngày 19 tháng 02. Đồng thời trước đó, nhóm thợ của Phật tử Minh Thạnh (Công ty Hương Thiền) đã cho đúc những cọc để ép xuống làm móng. Ngày 18 tháng 02, xe cẩu đã vào sân, cẩu những những khối bê tông trong tư thế chuẩn bị để sau khi đại chúng tụng kinh cầu nguyện xong sẽ sẵn sàng thi công ép chiếc cọc đầu tiên.

Về phần móng, theo bản vẽ của kỹ sư Đỗ Thành Phương (kỹ sư Đỗ Thành Phương là bạn của thầy Hoằng Xưng lúc trước. Tất cả bản vẽ và kết cấu của công trình Vạn Linh đều nhờ anh giúp. Bản vẽ của chùa Vạn Đức cũng do anh vẽ và phần chi phí ký tên chịu trách nhiệm anh cũng bỏ ra cúng dường luôn. Coi như về bản vẽ chùa không tốn một khoảng chi phí nào) thì vùng đất của chùa Vạn Đức quá tốt, chỉ cần móng đơn là đủ lực rồi, nhưng do xây dựng quá cao nên anh Minh Thạnh đề nghị với Hòa Thượng nên ép cọc. Tuy chưa chứng kiến việc ép cọc, nhưng qua sự trình bày về nguyên tắc ép cọc nên Hòa Thượng đã đồng ý. Ép cọc có nhiều lợi thế hơn là đào lỗ đặt móng. Đào lỗ đặt móng thì đất sẽ vung lên khó thao tác, khi xuống vĩ đổ bê tông, đất cát có thể tuột xuống lẫn vào bê tông làm giảm bớt hiệu quả. Sau khi đúc cố cột xong, xuống đất lại sẽ không dẻ dặt liền, làm ảnh hưởng về sau, còn ép cọc thì để nguyên trạng trạng, cọc ép xuống, đất sẽ dẻ dặt thêm, ép xong đổ đầu trụ, đổ đà liền là có được một nền móng gọn gàng, và chắc chắn, nhưng ép cọc phải đòi hỏi có mặt bằng rộng để xe cẩu di chuyển các khối bê tông chồng lên làm sức nặng, dùng thủy lực ép lên đầu cọc, nơi chật hẹp sẽ không thực hiện được phương pháp ép cọc này.

Đến ngày 29/02 ép cọc xong, tuần lễ sau đổ đầu cọc và đà kiền. Về đà kiền, theo bản vẽ cũng bớt đi rất nhiều, nhưng theo ý kiến thống nhất, Hòa Thượng cho đổ hết không bỏ khoảng nào. Xong bắt đầu lên cột và xây vách, đóng cốt pha đổ sàng. Đến ngày 13/03 là ngày đổ bê tông sàng. Đây là lần duy nhất của công trình sử dụng bê tông tươi do công ty Hồng Hà cung cấp. Giờ khởi động hơi trễ, vì xe bơm bê tông không vào được do cổng thấp, chúng tôi phải đào đất hạ đường đến hơn chín giờ sáng xe mới vào được. Tuy vậy, đến hơn ba giờ chiều cũng xong, gần đầy một trăm khối bê tông.

Trong quá trình xây dựng, mặc dầu chúng tôi đã có bản vẽ nhưng thực hiện hoàn toàn do sự chỉ đạo của Hòa Thượng, phải nói nhiều khi cũng rất bối rối trước sự chỉ đạo này, nhưng khi thực hiện rồi kết quả rất là hay. Chúng ta thật rất có phước, Hòa Thượng tuy đã gần chín mươi tuổi nhưng trí tuệ rất sáng suốt và ghi nhớ những việc còn chi ly hơn chúng ta nhiều. Qua đó mình mới thấy, năng của người có thực tu khác hơn người thường.

Theo dự kiến ban đầu, nếu thực hiện đúng theo thì sẽ hoàn thành sớm như dự định là 1 năm, nhưng trong thi công có thay đổi rất nhiều, tăng thêm tầng mái nên chiều cao tăng lên, do đó thời gian thi công cũng kéo dài hơn gấp đôi, có những việc nan giải chúng tôi phải họp bàn với kỹ sư mới tìm ra giải pháp. Cho nên chúng tôi gần như thực hiện từng phần. Sự thi công của chúng tôi mặc dầu có thầu, nhưng do chỗ thân tình nên cho mượn công, vì thế tất cả đều do chúng tôi chủ động, có tất cả ba nhóm thợ, nhóm của anh Minh Thạnh cho mượn là đông nhất, có khi lên đến năm mươi người. Nhóm này là chủ lực cơ bản của công trình, có một cai thợ quản lý. Nhóm này được anh Hoằng Lược, Tổng giám đống công ty Hoa Sen đài thọ cho bữa ăn trưa và chiều không tính vào tiền lương, còn ăn sáng và nửa buổi là do chùa lo. Một nhóm thợ theo thầy Hoằng Hiển lo đúc hoa văn điều từ công trình Vạn Linh về. Sau này điều thêm nhóm thợ sơn B của Vạn Linh. Hai nhóm thợ này khoảng ba mươi người hoàn toàn ăn nghỉ tại chùa.

Sau khi đổ bê tông, chúng tôi tiếp tục đổ các tầng mái trên, bê tông của các tầng mái này đều được trộn bằng máy tại chỗ và chuyền bằng sức người. Sau này lên cao quá, chuyền bằng hai cái tời, trong một cái và ngoài một cái. Mỗi lần đổ như vậy đều có Phật tử về rất đông và nòng cốt vẫn là nhóm Hoằng Trương, Châu Đốc.

Lần 01 ngày, 12/05 ÂL Giáp Thân.

Lần 02 ngày 10/06 ÂL Giáp Thân.

Lần 03 ngày 27/07 ÂL Giáp Thân.

Lần 04 ngày 20/08 ÂL Giáp Thân.

Lần 05 ngày 18/09 ÂL Giáp Thân.

Lần 06 ngày 29/10 ÂL Giáp Thân.

Lần 07 ngày 14/11 ÂL Giáp Thân.

Lần 08 ngày 10/12 ÂL Giáp Thân.

Đây là những ngày đáng ghi nhớ công sức đóng góp của tất cả Tăng Ni Phật tử, còn ba mái nhỏ trên cùng không có tổ chức đông người nên không ghi ra đây.

Trước khi xây dựng, thầy Hoằng Kiến đã nương theo bản vẽ và những ý kiến mới của Hòa Thượng, dùng những tấm phíc mỏng cắt theo tỉ lệ 01/30 dán ráp lại thành mô hình thu gọn. Thấy phía trước trống trải quá nên Thầy đề nghị làm thêm hai cái tháp nhỏ ba tầng để chồng lên hai bên góc mái lớn, được Hòa Thượng đồng ý. Hai tháp đó có nhiều chi tiết, thầy Hoằng Hiển ngại làm trên cao nắng mưa cực nên cho làm phía dưới sau sẽ cẩu lên. Chừng thành phẩm rồi quá nặng tưởng cẩu không lên nổi, may nhờ hai cẩu lớn đưa lên an toàn, làm tăng thêm phần mỹ quan phía trước.

Sau khi phần xây dựng cơ bản xong, chúng tôi tập trung lo hoàn thiện và trang trí cũng như sơn B. Mặc dù phần hoa văn chúng tôi cho thực hiện song song với xây dựng, nhưng quan trọng nhất là cây Bồ Đề phải chờ đủ diện tích mới thực hiện được. Phần này do thầy Hoằng Hiển trực tiếp thi công cùng một số phụ trong đó có Hoằng là chủ yếu. Lá đã được làm khuôn cho Phật tử công quả in ra gần mười ngàn lá vừa lớn vừa nhỏ. Sau khi đắp thân cây và nhánh, lá sẽ được gắn vào nơi phù hợp. Sở dĩ Hòa Thượng cho xây phần chánh điện cao trên 20m là muốn đủ diện thích để cây Bồ Đề có đọt. Đa số các chùa trang trí cây Bồ Đề sau lưng đức Phật cũng chưa nơi nào có đọt. Cây Bồ Đề ở Vạn Đức chẳng những có đọt mà còn có cả một bầu trời trăng sao lồng lộng, khiến cho người nhìn rất sống động giống như cây thật.

Thêm một điêu đặc biệt nữa là Hòa Thượng cho thờ nhiều tượng Hộ Pháp vì Hòa Thượng có thể chúng ta được an ổn tu hành là nhờ những vị Hộ Pháp gia hộ, mà các Ngài thì bàng bạc khắp nơi, nếu có cảm tất có ứng, vì thế, Hòa Thượng cho an trí một biến thành hai, hai biến thành bốn, bốn biến thành tám để chỉ cho cho vô số, và tất cả đều là hóa thân của đức Quán Âm nên tượng của Ngài ngồi trên cùng. Đó là những hình ảnh đặc biệt, những ý tưởng mà chỉ nơi đây có để chúng ta có ý thức luôn nhớ ơn đến chư vị Hộ Pháp.

Và một điều nữa, ai đến đây cũng đều phê bình dùng inox làm cửa. Đây cũng là một ý của Hòa Thượng, chuộng sự bền chắc lâu dài nên dầu có rất nhiều ý kiến, Hòa Thượng vẫn không thay đổi, xin lưu ý một điều, sự xây dựng ở đây nhất nhất đều tuân theo sự chỉ đạo của Hòa Thượng. Chúng tôi cũng được đóng góp ý kiến, nhưng nếu Hòa Thượng không đồng ý thì không được làm khác.

Một điều nữa cũng nói lên tinh thần tôn trọng những gì mà thí chủ đã phát tâm, muốn cho cái phước ấy còn được nối tiếp mãi, vì thế, khi trùng tu lần này, nghệ nhân Hoàng Hữu có cúng dường tượng đức Bổn sư bằng đá trắng cao 3m2 nặng bảy tấn và tượng Tổ cao 2m2, nhưng Hòa Thượng vẫn cho thờ lại ba tượng của chánh điện cũ. Cả hai bức phù điêu Quan Âm, Địa Tạng do cha con ông Đốc Ý điêu khắc cũng được thờ lại, chỉ đắp thêm cho xứng với bệ thờ mới và thếp vàng lại.

Một đặc điểm nữa là toàn bộ vách chùa cả trong lẫn ngoài đều được dán bằng gạch bóng kiếng, cạnh sáu tấc vuông. Nhất là vách bên ngoài của tầng trệt và chánh điện dán bằng gạch bể xin về được cắt lại, trông cũng rất đẹp, không ai tưởng là gạch bể mà chỉ nghĩ là làm kiểu thôi, còn phần mặt và cách các bệ thờ đều được dán bằng đá hoa cương lớn khổ, cũng như trên nền, đá được cắt theo quy cách 70/80 là vừa đủ cho một người ngồi để kệ kinh phía trước. Như thế mỗi người một viên gạch là ngay hàng thẳng lối không cần phải sắp xếp. Đá hoa cương là loại đắt tiền nhất trong các loại gạch lót nền. 

Sở dĩ chúng tôi dám sử dụng, không phải chùa nhiều tiền mà là vị Giám đốc của công ty Hùng Đại Dương bán cho chúng tôi với nửa giá tiền, do Phật tử Chơn Nguyệt giới thiệu, cho nên khi nhìn vào bề thế và cách trang trí của chùa, mọi người đuề cho rằng chắc kinh phí lớn lắm và cho rằng chắc của Phật tử nước ngoài đóng góp nhiều, nhưng khi được chúng tôi cho biết khoảng trên dưới năm tỉ và phần lớn là của người trong nước, mọi người đều ngạc nhiên. Như anh Hoằng Lược là Tổng giàm đốc công ty Hoa Sen cúng mỗi tháng là 48 triệu đồng, ứng với bốn mươi tám điều nguyện của đức Phật A Di Đà và còn đài thọ cho thợ cũng như phụ giúp những phương tiện khác trong khả năng sẵn có, cũng như toàn bộ gạch xây vách do gia đình Phật tử Thanh Nhu cúng dường (gia đình Phật tử Thanh Nhu là một gia đình lao động bình thường).

Qua gần hai năm thi công, mặc dù chưa xong hết, nhưng đã tạm xong phần bên trong, Hòa Thượng quyết định tổ chức lễ An vị nội bộ ngày Rước Chư Thiên 29 tháng Chạp vừa qua. Nhân ngày Đưa Chư Thiên 15 tháng Chạp theo truyền thống, các chùa tạm nghỉ tụng kinh, chúng tôi cho đưa các tượng Phật qua sắp đặt trang trí. Đúng 03 giờ 45 ngày 29, Hòa Thượng đã trực tiếp cử hành lễ An vị Phật, chánh thức cho đại chúng sinh hoạt tu tập tụng niệm trên chánh điện mới. Ngồi trong chánh điện cao rộng thoáng mát, ngước nhìn đức Phật uy nghiêm mỉm cười dưới cội Bồ Đề cao vút lên bầu trời lồng lộng trăng sao, tâm bỗng nhẹ nhàng thanh thoát.

Chùa sẽ tổ chức lễ An vị chính thức từ mùng 04 tháng tư vía đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến mùng 10 tháng 04 năm Bính Tuất (2006). Trong tuần lễ này, Hòa Thượng cho đại chúng luân phiên niệm Phật suốt ngày, đêm để hồi hướng công đức đến các thí chủ đã góp công góp của cho công trình sớm hoàn mãn. Buổi lễ sẽ kết thúc vào chiều ngày mùng 10 sau khi hoàn kinh Pháp Hoa mà đại chúng đã tụng trong ngày đó.

Việc xây dựng xong, Hòa Thượng đã giúp chúng ta một cơ ngơi rộng rãi với hoài bão cho tứ chúng có phương tiện tu tập. Chúng ta muốn đền đáp công ơn sâu dày của Ngài không gì hơn là tinh tấn tụng kinh niệm Phật, nương theo lời dạy của Ngài mà hành trì cho đắc lực. Đem kết quả một đời này được vãng sanh Cực Lạc dâng lên cúng dường. Đó mới gọi là đền đáp được ơn lớn của Hòa Thượng. Cầu Tam Bảo gia hộ cho Hòa Thượng trụ thế dài lâu, chùa Vạn Đức được trường tồn, tứ chúng đều nhất tâm tinh tấn.

Ngày 19-02 Bính Tuất

Đại chúng chùa Vạn Đức.




Có phản hồi đến “Vài Nét Về Chùa Vạn Đức Nơi Cố HT Thích Trí Tịnh Khai Sơn Hoằng Pháp”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com