(Bodhisattva Mahasthanapràta)
DANH HIỆU.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ Đại Thế Chí có nghĩa là dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp hết thảy, khiến chúng sanh trong ba đường ác được giải thoát và được năng lực vô thượng.
TIỀN THÂN.
Thuở xa xưa ở thế giới Vô Lượng Đức Tựu An Lạc thị hiện có đức Phật hiệu Kim Quang Sư Tử Du Hý ra đời hóa độ chúng sanh. Trong nước có ông vua hiệu Oai Đức, lấy chánh pháp trị dân nên cũng gọi là Pháp vương. Trong nước ấy không có người nữ, toàn là do hóa sanh. Vua kính thờ đức Phật Kim Quang Sư Tử Du Hý không biết mỏi nhàm. Một hôm, vua tọa thiền Tam muội, khi xuất định thấy hai hoa sen mọc bên tả hữu, trong mỗi hoa sen có mỗi đồng tử, rồi cùng nhà vua đến Phật nghe pháp. Vua Oai Đức đó là tiền thân Phật Thích Ca, hai vị đồng tử là Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. (Quán Thế Âm Bồ-tát Thọ Ký kinh)
Lại một thuở khác, Ngài là con trai thứ của vua Vô Tránh Niệm tên Ni-ma. Ngài được thân thừa cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sanh, được Phật thọ ký: sau này làm Bồ-tát hiệu là Đắc Đại Thế (Đại Thế Chí), phụ tá bên cạnh đức Phật A Di Đà ở cõi Cực-lạc. Và, sau nữa Ngài sẽ thành Phật hiệu là "Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương", ở thế giới Đại Thế. (Kinh Bi Hoa, quyển ba, phẩm Chư Bồ-tát Bổn Thọ Ký).
HẠNH NGUYỆN.
Ngài dùng pháp môn Niệm Phật Tam muội để tự tu và hóa độ chúng sanh. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật Thích Ca hỏi chỗ sở tu sở đắc của các vị La-hán và Bồ-tát, Ngài tự thuật: "Thời đức Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy con niệm Phật Tam muội... Nhơn địa xưa của con dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nay ở thế giới này, con tiếp độ người niệm Phật về Tịnh độ...". Đức Quan Thế Âm dùng lòng từ bi lăùng nghe tiếng đau khổ đến cứu độ chúng sanh, đức Đại Thế Chí dùng ánh sáng trí tuệ soi đường cho chúng sanh được giải thoát.
BIỂU TƯỚNG.
Ngài đứng bên hữu đức Phật A Di Đà, tướng người cư sĩ cổ đeo chuỗi anh lạc, tay cầm hoa sen xanh. Đây là lối thờ Di Đà tam tông: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả Bồ-tát Quán Thế Âm, bên hữu Bồ-tát Đại Thế Chí.
MẬT Ý.
Bồ-tát hình người cư sĩ để nói lên hạnh nguyện độ sanh của Ngài luôn luôn gần gũi quần chúng. Bởi vì muốn cảm thông nhau thì trước phải cùng hình thức như nhau. Bồ-tát là bạn lành của chúng sanh, cho nên mang hình thức người cư sĩ để dễ lăn lộn trong nhân gian, mà hóa độ họ.
Hoa sen xanh tượng trưng thanh tịnh, tức là đoạn đức. Dùng trí tuệ dứt sạch tất cả phiền não nhiễm ô, cứu vớt chúng sanh lên khỏi vũng bùn ác trược.
Muốn cứu vớt chúng sanh về tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sanh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế trược ấy, nhiên hậu đưa họ về Tịnh Độ.
Mỗi đức Phật đều đầy đủ hai đức tánh quan trọng là từ bi và trí tuệ. Thiếu một trong hai đức tánh này, không bao giờ thành Phật. Cho nên, thờ tượng tam tông để biểu thị ý nghĩa này. Đức Phật Thích Ca có hai vị Bồ-tát phụ tá là Văn Thù và Phổ Hiền. Ngài Văn Thù tượng trưng trí tuệ. Ngài Phổ Hiền là đại hạnh từ bi.
Đức Phật Di Đà cũng thế, có hai Bồ-tát phụ tá là Quán Âm và Thế Chí. Đức Quán Âm tượng trưng từ bi, Bồ-tát Thế Chí tượng trưng trí tuệ. Từ bi ở bên tả, trí tuệ ở bên hữu, để biểu thị trí tuệ lúc nào cũng dẫn đầu thì từ bi mới thành tựu. Chúng ta thờ Phật, lễ Phật luôn luôn phải học tập và thực hành hai hạnh này. Có thế, sự thờ Phật lễ Phật mới đầy đủ ý nghĩa.
HT Thích Thanh Từ