Mục Lục
Có một sự thực của cuộc đời là chúng ta chắc chắn sẽ mất những người mà ta yêu thương. Khi một người thân hay người bạn của chúng ta bị mất, chúng ta cảm thấy rất đau khổ và cảm thấy việc chịu đựng sự mất mát ấy rất khó khăn. Giáo lý của Đức Phật có thể giúp chúng ta đối diện với sự thật ấy và thấy mọi thứ như chúng là. Đức Phật đã nhiều lần dạy về đau khổ do sự mất mát người thân. Chúng ta đọc trong Kinh Ái sinh (Trung bộ kinh, Tập II, số 87):
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana, tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp cô độc). Lúc bấy giờ con một của một gia chủ, khả ái, đáng thương, bị mệnh chung. Sau khi nó chết, người cha không còn muốn làm việc, không còn muốn ăn uống, luôn luôn đi đến nghĩa địa, người ấy than khóc: “Con ở đâu, đứa con một của ta? Con ở đâu, đứa con một của ta?” Rồi người gia chủ ấy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tônrồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với người gia chủ đang ngồi một bên:
“Này Gia chủ, có phải Ông có các căn để an trú tự tâm ông, có phải các căn của Ông đổi khác?”
“Bạch Thế Tôn, sao các căn của con có thể không đổi khác được? Bạch Thế Tôn, một đứa con khả ái, đáng thương của con đã mệnh chung.
“Sự thật là như vậy, này Gia chủ, vì rằng, này Gia chủ, sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái”
“Nhưng đối với ai, bạch Thế Tôn, sự tình sẽ như vậy: “Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái?” Vì rằng, bạch Thế Tôn, hỷ lạc (anandasomanassa) do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái”
Rồi người gia chủ, không hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, chống báng lại, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Người gia chủ không thể hiểu được ý nghĩa sâu sắc trong lời Đức Phật dạy. Chúng ta cần phải cố hiểu điều Đức Phật muốn nói. Chúng ta cần phải cố hiểu Đức Phật đã dạy gì về thế giới, về bản thân chúng ta, về cuộc sống và cái chết. Đức Phật đã vắn tắt lời dạy của Ngài trong “Tứ diệu đế”:
Chúng ta đọc trong Tương ưng bộ kinh (tập V, Thiên Đại phẩm, Chương XII, Tương ưng sự thật, Phẩm II, Mục I) rằng Đức Phật đã giảng về “Tứ Thánh đế) cho năm vị đệ tử đầu tiên tại Vườn nai ở Vårånasi. Thánh đế đầu tiên là sự thật về “dukkha”, hay còn được dịch là sự thật về khổ hay sự thật về bất toại nguyện. Đức Phật đã nói
Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
Ngũ uẩn, tức là các hiện tượng tâm và thân trong và xung quanh chúng ta, là dukkha – khổ. Chúng ta có thể băn khoăn tại sao những thứ đó là khổ. Chúng ta cho tâm mình là ta, nhưng cái mà gọi là tâm chỉ là các yếu tố tinh thần hay danh sinh rồi diệt ngay lập tức. Chúng ta cho thân mình là ta, nhưng cái mà ta gọi là thân ta chỉ là các yếu tố vật lý hay sắc sinh rồi diệt. Khi chúng ta không biết sự thực, chúng ta sẽ nghĩ rằng các hiện tượng này trường tồn; chúng ta coi chúng là ta, là ngã. Chẳng hạn, chúng ta có thể nghĩ rằng sự buồn rầu kéo dài, nhưng không phải chỉ có sự buồn rầu, mà còn có (xen kẽ) rất nhiều hiện tượng khác như cái thấy, cái nghe, sự suy nghĩ. Cía mà ta cho là một nỗi buồn dai dẳng trên thực tế chỉ là các hiện tượng khác nhau đang nối tiếp lẫn nhau; không có hiện tượng nào trường tồn.
Cái là vô thường thì không thể là hạnh phúc thực sự; vì vậy chúng là dukkha. Mặc dù dukkha thường được dịch là “khổ”, nhưng nó không chỉ có nghĩa là cảm thọ ưu (khổ); Thánh đế đầu tiên liên quan đếntất cả các hiện tượng sinh và diệt. Không có gì trong cuộc đời chúng ta mà không phải là dukkha. Ngay cả cảm thọ lạc cũng là dukkha, vì nó không kéo dài.
Thánh đế Thứ hai trong Tứ diệu đế là nguyên nhân của khổ, đó chính là tham ái. Vẫn trong bài kinh đó,chúng ta đọc:
Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Như vậy, này các Tì kheo, đây chính là thánh đề về sự sanh khởi của khổ.
Chừng nào còn có tham ái dưới bất kỳ dạng nào thì vẫn còn có nhân duyên cho cuộc sống, cho sự sinh khởi của danh và sắc. Vì vậy, vẫn còn có dukkha.
Thánh đế thứ ba là sự diệt khổ, tức là niết bàn. Chúng ta đọc trong bài kinh:
Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.
Tham ái là nguyên nhân của khổ, khi có sự chấm dứt của tham ái sẽ có sự chấm dứt của tái sinh và vì vậy, chấm dứt khổ. Niết bàn là sự chấm dứt dukkha. Vị a la hán, tại thời điểm giác ngộ, đã tận diệt mọi tham ái và vì vậy, đối với vị ấy, không còn có nhân duyên cho sự tái sinh, có nghĩa là chấm dứt dukkha.
Chúng ta đọc trong cùng bài kinh về “Tứ thánh đế”:
Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là con đường Thánh đạoTám ngành, tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngư, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Bát Thánh đạo (ariya-magga) là sự phát triển hiểu biết đúng về tất cả các hiện tượng sinh khởi trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ đi tới hiểu biết thực sự về thế giới ở trong và xung quanh chúng ta, không phải do phỏng đoán mà từ kinh nghiệm thực chứng.
Chúng ta kinh nghiệm thế giới như thế nào? Chúng ta kinh nghiệm thế giới qua thấy, nghe, nếm, ngửi, tiếp nhận các tác động qua thân căn và qua ý căn. Tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm qua ngũ cănvà ý căn đều cực kỳ ngắn ngủi, bởi tất cả các hiện tượng đều sinh và diệt ngay lập tức. Khi chúng tathấy, có thế giới của đối tượng thị giác, nhưng nó không kéo dài, nó lại diệt đi ngay. Khi chúng ta nghe, có thế giới của âm thanh, nhưng nó là vô thường. Cũng như vậy đối với thế giới của mùi, vị, của các đối tượng xúc chạm và thế giới các đối tượng của ý căn; không có cái gì trong những thế giới ấy trường tồn.
Trong Thanh tịnh đạo (Chương VIII, số 39), chúng ta đọc về sự ngắn ngủi của thế giới:
Nói cho cùng, đời sống chúng sanh vô cùng ngắn ngủi, chỉ trong khoảng một niệm. Như cái bánh xe, khi lăn chỉ lăn trên một điểm và khi nghỉ cũng chỉ nghỉ trên một điểm (điểm tiếp giáp với mặt đất), cũng thế, đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài trong khoảng một niệm. Khi niệm ấy qua đi, chúng sinh ấy được coi như đã chấm dứt, như lời trích dẫn sau đây:….
Sự sống, con người, lạc, khổ
Những thứ này
Họp lại chỉ trong một niệm thoáng qua
Các uẩn đã diệt của những người đã chết hay còn sống
Đều giống nhau, một đi không trở lại
Không có thế giới sanh nếu ý thức không sanh
Khi ý thức có mặt, thì thế giới tồn tại
Khi ý thức tan rã, thì thế giới chết đi…
Cái mà chúng ta gọi là cái chết không thực sự khác với những gì đang xảy ra tại từng khoảnh khắc của thức. Mỗi khoảnh khắc một citta diệt đi đều là một cái chết. Mỗi một citta sinh và diệt đi hoàn toàn, nhưng nó tạo duyên cho citta tiếp theo. Citta cuối cùng của cuộc đời này là tâm cận tử (cuti citta) được tiếp nối bởi tâm đầu tiếp của kiếp sống tiếp theo, hay thức tái sinh (patisandhi-citta). Không có cái ngã nào ở bất kỳ khoảnh khắc nào của cuộc đời chúng ta, vì vậy không có cái ngã hay linh hồn nào đi từ cuộc đời này đến cuộc đời khác.
Chỉ vô minh mới làm chúng ta suy nghĩ và hành xử như thể thân và tâm là trường tồn. Chúng ta dính mắc vào thân và tâm, chúng ta coi đó là ta. Chúng ta nghĩ rằng có một cái tôi đang nhìn, nghe, suy nghĩvà cử động. Sự dính mắc vào ngã tạo nên đau khổ. Chúng ta mong muốn làm chủ thân và tâm; chúng ta mong muốn kiểm soát cuộc sống và chỉ kinh nghiệm những thứ dễ chịu. Khi chúng ta đối diện với tuổi già, bệnh tật và cái chết, chúng ta sẽ rất buồn khổ. Những người vô minh về thực tại không thể nắm bắt được lời dạy của Đức Phật rằng khổ bắt nguồn từ dính mắc. Đó thực chất là Thánh đế thứ hai, thánh đếvề nguyên nhân của dukkha, tức là sự dính mắc. Chúng ta nên nhận ra rằng tất cả danh và sắc sinh khởi đều vô thường, khổ và vô ngã. Đức Phật đã chỉ ra sự vô thường của tất cả các hiện tượng bằng nhiều cách khác nhau. Ngài đã nói về sự vô thường của thân để giúp mọi người bớt dính mắc vào khái niệm “thân của ta”. Ngài nói về quán bất tịnh trên thân, Ngài đưa ra phương pháp hành thiền quán các giai đoạn hủy hoại khác nhau của tử thi. Chúng ta đọc trong Kinh Niệm xứ (Trung Bộ Kinh Tập I, số 10):
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”.
Thanh tịnh đạo (Chương VI, 88) giải thích:
Vì một cái xác sống cũng bất tịnh hệt như một cái xác chết, chỉ có một điều khác là tính bất tịnh không rõ rệt nơi một cái xác sống vì may được che dấu dưới những lớp trang sức.
Để mọi người có thể nhận ra sự bất tịnh tương tự đối với một cái thân còn sống, Đức Phật đã nói “Ba mươi hai thể trược”. Chúng ta đọc trong Kinh Tứ niệm xứ như sau:
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu”
Suy ngẫm về sự bất tịnh của thân có thể giúp chúng ta bớt dính mắc vào thân, nhưng cách hiệu quảnhất để thấy thân như nó thực là chính là chánh niệm và trực nhận về sắc tạo nên thân. Chúng ta đọc trong Kinh Tứ niệm xứ, Đức Phật đã nói về thân theo tứ đại như sau:
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”
Yếu tố địa đại thể hiện ở đặc tính cứng hay mềm, yếu tố thủy đại ở đặc tính kết dính, yếu tố hỏa đại thể hiện ở đặc tính nóng và lạnh, yếu tố của phong đại ở đặc tính của sự chuyển động hay co dãn. Tất cả những yếu tố này đều như nhau, bất kể chúng ta quán chiếu ở trên vật vô tri hay trên cơ thể. Cả thân và các vật vô tri đều chỉ là những yếu tố vô thường và vô ngã.
Chúng ta nên biết thế giới như chúng thực là bằng cách kinh nghiệm các đặc tính khác nhau của nama và rúpa khi chúng xuất hiện qua ngũ căn và qua ý căn. Chẳng hạn, khi đặc tính của cái nóng đang sinh khởi qua thân căn, nó có thể là đối tượng của sự hay biết. Khi cái mềm xuất hiện, nó có thể là đối tượng của chánh niệm. Bằng cách ấy, chúng ta sẽ dần biết cácđặc tính khác nhau của thực tại thông qua kinh nghiệm riêng của mình và chúng ta sẽ thấy được chúng chỉ là các yếu tố.
Điều quan trọng là cần biết các đặc tính của thực tại khi chúng xuất hiện để có thể loại bỏ được sự dính mắc vào ý niệm về ta. Chúng ta có thể nghĩ rằng đặc tính mềm của thân thuộc về “thân ta”. Khi chúng tahọc chánh niệm thường xuyên hơn về đặc tính của cái mềm, chúng ta sẽ hiểu rằng cái mềm là một đặc tính, nó giống hệt nhau trên vật vô tri và trên thân. Chúng ta sẽ biết thông kinh nghiệm rằng nó là một đặc tính không kinh nghiệm điều gì cả; rằng nó là sắc và là vô ngã. Vì vậy, chúng ta sẽ bớt dính mắc vào ý niệm về “thân ta”. Khi chúng ta hay biết về các thực tại như là cái thấy, nỗi buồn, hạnh phúc và suy nghĩ, chúng sẽ biết rằng chúng chỉ là các loại danh khác nhau sinh rồi diệt. Chúng là dukkha. Mắt là dukkha, thấy là dukkha, cảm thọ sinh bởi cái thấy cũng là dukkha.
Mọi người không thấy việc hay biết về danh và sắc khi chúng xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày có gì hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng ta phải suy xét điều chúng ta thực sự cần trong cuộc đời. Liệu chúng ta có muốn tiếp tục vô minh và coi thân và tâm là ta hay không? Chúng ta muốn sống trong bóng tối hay chúng ta muốn phát triển trí tuệ để có thể chấm dứt dukkha? Nếu chúng ta quyết định rằng, chúng tacần đi theo con đường dẫn đến sự tận diệt dukkha, chúng ta phải phát triển tuệ giác trong cuộc sống hàng ngày: khi chúng ta thấy, nghe hay suy nghĩ, khi chúng ta cảm thấy buồn và khi chúng ta thấy hạnh phúc. Đó là cách duy nhất để hiểu dukkha, sự sinh khởi dukkha, sự tận diệt dukkha và con đường dẫn đến sự tận diệt dukkha. Khi chúng ta nhận ra vô minh bám rễ sâu dày đến đâu và dính mắc vào bản ngãmạnh mẽ đến thế nào, chúng ta sẽ có thêm động cơ để tập hay biết về nama và rúpa.
Đức Phật thường nói về quán sự chết. Ngài nói về cái chết để nhắc nhở mọi người về sự vô thườngtrong từng khoảnh khắc. Cuộc sống vô cùng ngắn ngủi và vì vậy, chúng ta không nên lãng phí thêm thời gian nữa, mà chúng ta nên học phát triển hiểu biết về giây phút hiện tại, nhờ đó vô minh về thực tại có thể bị loại bỏ. Vô minh không thể bị loại bỏ trong thời gian ngắn. Chỉ khi chúng ta đã đạt đến giai đoạn thứ tư và là giai đoạn cuối cùng của sự giác ngộ, giai đoạn của bậc a la hán, thì mới không còn phiền não nữa; chỉ khi đó vô minh mới hoàn toàn bị tận diệt. Chúng ta đọc trong Kinh Đại niết bàn (Trường bộ kinh – Tụng phẩm II, số 16, Chương VI, 10, 11) rằng khi Đức Phật nhập diệt, những người vẫn còn nhân duyên để đau khổ đã khóc:
Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: “Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệt nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm!”.
Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư: “Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?”
Lúc bấy giờ, tôn giả Anuruddha nói với các Tỷ-kheo: Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt? Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy: “Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự biến dịch?”.
Cùng trong bài Kinh ấy (Chương II, 32), chúng ta đọc rằng trước khi Đức Phật tịch diệt, Ngài đã nói với Ånanda:
Này Ananda, Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến tám mươi tuổi… Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.
Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?
Ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bitrên đời; đối với các cảm thọ… đối với tâm… đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.
Khi chúng ta “quán” thân trên thân, thọ trên thọ, tâm trên tâm và pháp trên pháp, chúng ta sẽ học không còn thấy bản ngã trên thân, thọ, tâm và pháp. Chỉ khi chúng ta hay biết về các loại nama và rúpa khác nhau xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta mới thấy được chúng là vô thường, khổ và vô ngã. Đây là cách duy nhất để dẫn đến diệt trừ phiền não, đến sự bất tử.
Nina Van Gorkom
(Thiền Viện Phước Sơn)