20) Nước Khư Sa có chu vi hơn 5000 dặm, toàn là cát và đất đai rất ít nhưng ngũ cốc tốt tươi, hoa trái đa dạng. Xứ nầy chuyên sản xuất lông cừu và bông vải. Khí hậu ở đây điều hòa, nhưng đôi khi nhiều gió mưa. Tánh tình con người cuồng bạo, thường dối trá. Lễ nghi thô thiển. Nghề nghiệp hời hợt. Tục lệ khi sinh con, viết lên bảng để báo tin. Dung mạo khá xấu xí, Hình dáng rất xanh nhạt. Ở đây, dùng văn tự Ấn Độ. Sách vở sửa đổi nhiều.

Ngôn ngữ tiếng nói đều khác với các nước. Ở đây họ tin tưởng theo Phật Pháp. Khuyến khích làm việc thiện, có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn vạn tăng đồ. Họ học tập theo Tiểu thừa thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Không cần tìm hiểu nguồn gốc sâu xa. Đa phần đều đọc thuộc những bản kinh, tụng thuộc làu Tam Tạng. Có nhiều người thuộc Tỳ Bà Sa. Từ phía đông nam, đi hơn 500 dặm đến sông Tế Độ Đa. Qua khỏi sông lớn gặp núi đến nước Nghiên Cẩu Da.

21) Nước Nghiên Cẩu Da chu vi hơn 1000 dặm. Đô thành chu vi hơn 10 dặm. Nơi đây rất nguy hiểm nhưng nhà cửa xây dựng kiên cố, có rất nhiều người ở. Núi non trùng trùng điệp điệp. Đất đầy sỏi đá, giáp với hai con sông. Cho nên ở đây người ta trồng nhiều nho, lê và quả tần... Rau cải xanh tốt. Có gió lạnh. Người ở đây tánh tình thô bạo. Tập tục dối trá, hay làm những việc trộm cướp. Văn tự giống như nước Cù Tác Đản Na. Ngôn ngữ lại khác. Xem nhẹ lễ nghi. Nghề nghiệp thiển cận. Có tín tâm Tam Bảo ham làm việc phước lợi. Có 10 ngôi Già Lam, đa phần bị hư hoại và hơn 100 Tăng Sĩ, tu học theo phái Đại Thừa.

Biên giới phía nam của đất nước nầy, có một núi lớn. Đỉnh cao chót vót. Núi non quanh co bao bọc. Mùa đông không còn cây cỏ. Mùa xuân tươi tốt. Khe suối có nhiều nước chảy. Có nhiều động đá và có nhiều cây cối. Những vị tu sĩ Ấn Độ chứng quả thường dùng thần túc thông dạo chơi và thường dừng chân xứ nầy. Ở đây có nhiều vị A La Hán tịch diệt cho nên còn nhiều Bảo Tháp lưu lại. Cho đến bây giờ vẫn còn ba vị A La Hán tọa thiền trong động đá đang nhập Diệt Tận Định. Hình hài tóc tai ra dài. Các vị Sa Môn đến đây cắt tóc cho họ. Ở nước nầy kinh điển Đại Thừa có rất nhiều và Phật Pháp truyền đến chẳng bao lâu thì hưng thạnh. Có người đọc tụng cả mười vạn bộ. Hiện có 10 người. Từ đó về sau kinh điển được lưu truyền rộng rãi ra. Đi về phía đông vào núi và qua khỏi hang động, đi hơn 800 dặm nữa đến nước Cù Tác Đản Na.

22) Nước Cù Tác Đản Na (Nước Vu Điền - Custanna) chu vi hơn 4000 dặm, hơn quá nữa là cát đá, đất đai thì hẹp, cày cấy trồng trọt được hoa quả nhiều, sản xuất nhiều lông trừu và có nhiều bông vải. Lại cũng có sản xuất bạch ngọc và lam ngọc. Khí hậu điều hòa, gió nhiều. Người dân ở đây biết trọng lễ nghĩa, tánh tình thuần hậu, ham học điển chương, nghề nghiệp kỹ thuật tốt. Dân chúng giàu có cho nên an vui với nghề nghiệp.

Trong nước thường thích nghe âm nhạc và nhiều người thích múa hát. Ít người mặc áo bằng lông hoặc da. Đa phần mặc vải sợi màu trắng. Hình mạo lễ nghi phong tục có kỹ cương. Văn tự hiến chương đều tôn sùng Ấn Độ, có sửa đổi lại một ít, vì địa lý cách trở. Tiếng nói khác với các nước khác, sùng kính Phật Pháp. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn 5000 tu sĩ đa phần tu theo Đại Thừa Phật giáo. Nhà Vua rất tôn kính Tam Bảo. Tự ví mình như một vị Tỳ Sa Môn Thiên.

Ngày xưa ở nước nầy, chẳng có người, Tỳ Sa Môn Thiên xuống đây. Thái Tử con Vua A Dục ở tại nước Đản Xoa Thủy La bị Vua giận ra lệnh móc mắt và đày xuống làm thường dân lên ở trong những hang động hoang phế trên núi tuyết đến ở phía bắc. Vua chuyển người và vật ở đó về phía tây. Rồi suy cử người quý phái khác lên làm Vương. Trong khi đó, con của Vua lưu chuyển đến đây và tụ họp mọi người lại cũng xưng vương. Thời gian tuy lâu nhưng phong tục chẳng thuần.

Những người thợ săn gặp nơi hoang phế liền hỏi tông tích rồi bèn tranh nhau chức trưởng. Hai bên tranh qua lại rồi muốn đánh nhau. Có bên nói:

- Nguyên nhân gì mà người thợ săn quyết chiến cho khổ binh lính. Nên rút binh về.

Nghe vậy liền kéo binh lui về. Những người trở về lại nước liền luyện tập binh mã đốc suất sĩ tốt đem binh đến, cờ trống gióng lên ngày đêm để hợp chiến. Người chủ phía tây bất lợi chạy đến phía bắc bị chém đầu, chủ phía đông thừa thắng phủ dụ kẻ mất nước dời đô về giữa nước thành lập nhà cửa làng xóm. Sợ việc không có đất đai, khủng hoảng khó thành công, cho nên báo tin cho xa gần biết ai biết về địa lý thì hãy đến xem.

Lúc bấy giờ có một ngoại đạo lõa thể, tự phụ khoa trương biết rành phong thủy cho nên tiến đến nói:

- Tôi biết về địa lý, dưới này có nước ngầm đang chảy chung quanh đây cho nên bịnh tật khó có thể qua được. nhưng căn cứ vào nước ngầm mà xây dựng cơ đồ. Sau đó sẽ được hưng thịnh, cứ thế mà tiếp tục trị nước.

Vua bây giờ vẫn ở thành ấy. Thành khó vào cho nên việc công phá khó thành công. Từ xưa đến nay chưa ai có thể thắng. Vua dời đô đến đây để lập ấp xây dựng đất nước và an dân. Tích công bồi đức mà thành nhưng sợ tuyệt tự không còn kẻ nối dõi cho nên đến nơi Thiên Thần Tỳ Sa Môn để kỳ nguyện thỉnh cầu. Tượng thần ở bên trên ban cho một đứa bé anh tài bồng về nước mình. Dân chúng hoan ca, nhưng cậu bé không biết uống sữa.

Vua sợ không thọ liền sắc chỉ cho người giữ đền chăm sóc duỡng dục. Trước mặt của thần từ dưới đất vụt lên một giòng nước như dòng sữa. Đứa bé đó uống cạn, càng ngày, càng lớn trí dũng đa mưu thắp sáng lên phong tục rồi dựng đền thờ trở thành tiên tổ. Từ đó về sau đời đời kế thừa mà Vua chúa nước nầy chưa bao giờ thất bại với nước bên cạnh, nên cho đến bây giờ miếu thần có nhiều đồ trân quý được người ta đem đến cúng. Vì thế nước ấy lấy tên là sữa từ đất để làm quốc hiệu.

Cách Vương thành về phía nam hơn 10 dặm có một Đại Già Lam, tiên vương của xứ nầy vì vị A La Hán Tỳ Lô Kỳ Na đã kiến lập nên. Tích xưa kể rằng:

Nước nầy khi Phật Pháp chưa có, có vị A La Hán từ nước Ca Thấp Di La đến rừng ở đây tọa thiền định. Có kẻ thấy người mặc y phục lạ bèn tâu Vua. Vua đích thân đến xem dung mạo, hỏi ngài là ai mà ở trong rừng vắng vẻ như vậy. Vị A La Hán đáp:

- Tôi là đệ tử của Phật thích ở nơi vắng vẻ để thiền định.

Vua nghe như vậy muốn trồng cây phước và hoằng truyền Phật Pháp cho nên kiến tạo Già Lam và mời tăng chúng đến. Vua hỏi:

- Như Lai là vị có đức gì, có thần gì, mà ông chuyên cần khổ hạnh phụng thờ như thế?

Đáp rằng:

- Như Lai là bậc thương xót bốn loài, muốn đưa họ ra khỏi tam giới hoặc rõ ràng, hoặc thí dụ để chỉ cho chúng sanh sự sanh và sự diệt. Ai tôn kính Pháp nầy sẽ xa lìa sanh tử. Kẻ nào mê mờ sẽ bị sa đọa nơi lưới ái.

Vua bảo:

- Thực là một lý Thuyết có ý nghĩa cao siêu của bậc đại thánh. Nếu là bậc Đại Thánh vì ta nên hiện hình để ta được chiêm ngưỡng, ta sẽ kiến lập chùa Viện phát tâm quy y hoằng dương Chánh Pháp.

A La Hán nói:

- Vua xây dựng Già Lam thành công, sẽ được cảm ứng.

Sau đó Vua cho xây Già Lam rồi triệu tập người xa gần đến làm Pháp Hội ăn mừng. Khi tiếng kiền chùy chưa dứt lúc triệu tập, Vua hỏi vị A La Hán rằng:

- Ngôi Già Lam đã xây xong, Phật ở đâu?

A La Hán đáp:

- Đang đến. Ở gần bên ngài chớ không có xa. Vua nên lễ thỉnh.

Đoạn từ trên hư không thấy tượng Phật hạ xuống nơi chỗ đánh kiền chùy. Nhờ thế Vua phát tín tâm với Tam Bảo và nguyện hoằng dương Phật Pháp.

Phía tây nam của Vương thành hơn 20 dặm, có một núi tên là Cù Thất Lăng Già. Trên đỉnh, núi chẻ ra làm đôi, kiến tạo Già Lam trên đó, bên trong có tượng Phật chiếu sáng. Nơi đây ngày xưa Như Lai cũng đã từng đến, đã vì trời người mà lược nói những pháp quan trọng. Và theo huyền ký đất nước được lập quốc, sùng kính Giáo Pháp tôn trọng Đại Thừa.

Trên đảnh núi ấy, có một động đá lớn. Trong đó, một vị A La Hán đang nhập Diệt Tận Định để chờ đức Di Lặc ra đời. Cả hàng trăm năm nay, sự cúng dường liên tục không dừng. Gần đây núi bị lỡ và cửa động vẫn bị khóa. Quốc Vương sai binh lính muốn dẹp dọn đá vỡ. Lúc đó ong đen trên đỉnh bay xuống chích độc vào người, cho đến bây giờ cửa động ấy vẫn không mở được.

Cách Vương thành về phía tây nam hơn 10 dặm, có một thành tên là Địa Già Ba Phượt Na. Bên trong có một tượng Phật. Tượng ấy từ nước Nhục Chi mang đến. Ngày xưa ở đây có Vua, nhưng bị bắt đem qua ở bên nước Nhục Chi gửi tượng Phật này về tạ lễ mong rằng được trở về lại nước. Vì muốn về nước cho nên tâm luôn luôn cung kính Phật. Sau một đêm cầu nguyện tượng kia tự đến nước nầy. Người ở đây, lấy nhà sửa đổi thành Già Lam.

Cách phía tây Vương thành đi hơn 200 dặm đến thành Lạc Già Di, trong đó một tượng Phật ngồi cao hơn 7 thước, tướng hảo trang nghiêm, uy nghi tịch tịnh. Trên đầu có bảo cái, ánh sáng chiếu ra. Nghe người xưa bảo lại rằng chỗ nầy thuộc nước Ca Thấp Di La, thỉnh đến nơi nầy, có một vị A La Hán. Vị ấy có một đệ tử Sa Di lâm bệnh rồi mất. Muốn tìm đồ ăn, vị A La Hán dùng thiên nhãn để thấy, ở nước Cù Tát La có hương vị nầy nên vận thần thông lực đến để tìm. Sa Di ăn được xong nguyện sanh về nước nầy. Do quả đó mà được làm Vua rồi tức vị uy hiếp xa gần, rồi vào trong núi Tuyết chinh phạt nước Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La chỉnh trang binh mã muốn ngự đến biên thùy. Lúc ấy vị A La Hán thưa rằng:

- Chớ nên dùng binh, tôi có thể làm cho họ rút lui.

A La Hán tìm gặp Vua Câu Tác Đản Na thuyết pháp. Lúc đầu Vua chưa tin, vẫn giữ ý dụng binh. A La Hán bèn giữ Vua nầy chỉ cho Vua thấy thân trước là Sa Di. Khi nhà Vua thấy được y áo của Sa Di liền chứng được túc mạng trí, bèn cảm tạ Vua Ca Thấp Di La hai bên giao hảo rồi rút binh, tiếp đón tượng của ông Sa Di và cúng dường theo lễ nghi của Vua. Tượng ấy cho đến nay vẫn còn ở đây không ai di chuyển được. Hoặc kiến tạo Già Lam, hoặc mời Tăng Lữ đến ở. Lấy bảo cái bên trên tượng ra, mà bảo cái đó Vua trước cúng thí.

Phía tây Vương thành cách hơn 156 dặm. Ngay giữa đường đi có một gò cát nổi, chuột làm ổ ở đó. Tương truyền rằng trong gò cát nầy chuột lớn như con nhím. Lông nó màu vàng bạc. Sống thành nhóm, mỗi lần ra khỏi hang chúng chạy nối đuôi theo con đầu đàn. Ngày xưa ở tại đây bọn hung nô có cả trên mười vạn người tấn công vương thành. Đến đóng quân tại nơi gò chuột nầy. Vua Cù Tát Đản Na đem vạn binh tới nhưng sợ địch không nổi. Biết rằng trong mộ kia có chuột chưa phải là thần, nhưng chuyện đến gấp không thể cầu cứu được.

Vì sợ và chưa biết kế gì nên ông thiết lễ cầu thỉnh rằng chuột có linh thiêng gia nhập vào quân lực. Trong đêm đó Vua mộng thấy con chuột lớn nói rằng sẽ hổ trợ cho binh lính đến ngày hôm sau hợp chiến tất nhiên thắng lợi. Vua Cù Tát Đản Na biết rằng có sự linh hiển cho nên chỉnh trang binh mã ra lệnh cho tướng sĩ. Trời chưa sáng đã ra đi. Từ xa hung nô nghe thấy tiếng nhưng chưa chưẩn bị. Rồi lên xa giá, cưỡi ngựa mang cung tên v.v....Không ngờ chuột bò ra cắn đứt dây đai khi giáp trận, binh lính bên nầy thừa thắng tấn công.

Binh lính hung nô sợ hãi, vì biết có thần linh giúp đỡ bên kia nên tan rã. Vua Cù Tát Đản Na cảm ơn chuột nên dựng đền nầy để cúng tế. Trải qua đời đời đều tôn kính đặc biệt khác thường. Cho nên trên từ quân vương dưới đến lê thứ, hoặc sửa sang đền thờ, hoặc đến đây cầu phước. Khi đi đến hang đó thường xuống xa mã, tỏ lòng tôn kính. Thường hay cúng tế cầu phước bằng y phục và cung tên hoặc hương hoa đồ ăn v.v.....Lâu ngày thành một tục lệ. Nếu không cúng tế sẽ có tai biến.

Cách phía tây của thành hơn 5 hay 6 dặm, có một ngôi Già Lam tên là Ba Ma Nhược, trong đó có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, thật là linh diệu, thường phát ra ánh sáng. Tương truyền rằng có một vị A La Hán từ xa đến dừng chân ở trong rừng nầy dùng đại thần lực phóng đại hào quang. Lúc ấy vào ban đêm vua ở trong cung điện nhìn vào rừng thấy ánh sáng chiếu diệu, cho nên mới hỏi và được báo lại rằng:

- Có một Sa Môn từ xa đến, ngồi yên trong rừng sâu hiện đại thần thông.

Vua bèn ra lệnh xa giá đích thân đến quan sát, thấy được người hiền, tâm thầm cung kính. Khâm thừa lời thỉnh, A La Hán cỡi gió đến cung Vua. Sa Môn nói:

- Muôn vật đều có ý chí và có sự tồn tại. Rừng sâu, đầm lạnh cũng có tình thức. Nhà cao, lầu đẹp cũng chẳng phải là điều ta nghe.

Vua thấy thế càng thêm kính ngưỡng hơn nữa, cho nên Vua kiến tạo Già Lam và xây Bảo Tháp. Sa Môn thọ sự thỉnh cầu và ở yên trong đó. Rồi Vua nhận được cả hàng trăm viên xá lợi rất vui mừng liền tự nghĩ rằng:

Xá Lợi ứng hiện như thế có điềm gì, liền cho an trí vào nơi bảo tháp, há chẳng phải là một Thánh tích sao? Tìm đến Già Lam bạch cùng Sa Môn và vị A La Hán bảo rằng. Vua đừng có lo. Bây giờ an trí vào rồi sẽ có vàng bạc đồng thiếc ở trong động đá đấy nữa, mà càng ngày càng nhiều.

Vua ra lệnh cho thợ phải hoàn tất trong vòng một ngày rồi chở những bảo vật ấy đem vào cúng dường trong Già Lam. Lúc ấy, cung Vua quan dẫn hàng vạn thứ dân đến chiêm ngưỡng và cung nghinh xá lợi. Vị A La Hán nâng Bảo Tháp đặt vào giữa và nói với Vua:

- Có thể giữ ở đây rồi sẽ để yên trong hộp nơi đất. Sau đó để vào tháp chẳng có mất mác. Xem xong liền than rằng thật là hiếm có rồi tâm thâm tín Phật càng tăng và lòng kính trọng Giáo Pháp càng kiên cố. Vua nói với quần thần:

- Ta thường nghe Phật lực khó biết, thần thông khó được, hoặc phân thân trăm ngàn ức lần, hoặc ứng hiện nơi trời người, ở thế giới nầy cầm giữ chúng sanh, làm cho không động tịnh rồi diễn nói pháp tánh với âm thanh bình thường, chúng sanh tùy từng loại một mà giác ngộ. Đây là loại thần lực chẳng phải binh lính mà trí tuệ không phải dùng lời. Sự linh thiêng đó đã làm ổn định lời dạy dỗ truyền đạt. Thức ăn nước uống theo gió mà đến. Thấy sự linh diệu nầy càng tin tưởng vào phước đức hơn. Rồi ai nấy cũng tôn kính sâu xa. Phật Pháp cao sâu đã làm sáng ra điều đó.

Phía đông nam vương thành đi năm sáu dặm, có ngôi Già Lam tên là Ma Xà. Già Lam do Hoàng hậu của nước nầy lập nên. Ngày xưa nước ấy chưa biết dệt vải nuôi tằm. Cho nên ra lệnh cho sứ đi tìm nơi nước phía đông. Lúc ấy, Vua nước phía đông nghiêm cấm không cho xuất cảng tơ tằm ra ngoài, cho nên Vua Cù Tát Đản Na mới cầu hôn với nước phía đông để mong được giống như chí nguyện. Sự thỉnh cầu của Vua được như ý. Sau đó Vua Cù Tác Đản Na ra lệnh đi đón dâu và nói:

- Cô sẽ là quận chúa từ phía đông thuộc nước của cha nơi đây, chưa có loại tơ sợi dâu tằm, cho nên cố gắng mang đến để may y phục.

Công nương nghe lời liền mật tìm được loại ấy, rồi cho con tằm bỏ vào trong lá dâu để mang đi và canh phòng cẩn mật. Mọi người bị lục soát, nhưng trên mũ của vương nữ không bị kiểm tra. Dâu tằm được mang vào nước Cưu Tác Ma Đản Na. Quận chúa ở tạm chùa Ma Tạ. Rồi từ đó dùng nghi lễ nghinh vào cung nội. Mùa xuân cây dâu được trồng xuống đất. Khi con tằm đến tháng, lá dâu nuôi duỡng. Đây là thức ăn chính của tằm. Từ đó về sau cây dâu càng ngày càng nhiều. Vương phi đã cho khắc lên bia đá không được giết hại tằm, vì tằm ấy sẽ nở ra con. Nếu ai vi phạm, sẽ bị thần linh phạt vạ. Vì con tằm ấy mà kiến tạo nên Già Lam và dùng rất nhiều cây dâu khô. Đây là cây căn bản cho tằm. Ra lệnh nước đó không được giết hại tằm, rồi thâu lấy những loại tơ sang năm sẽ có tằm trở lại.

Về phía đông nam của thành đi hơn 100 dặm có một sông lớn chảy qua hướng tây bắc. Người dân ở đó lợi dụng để đưa nước vào ruộng và cứ tiếp tục chảy mãi như thế. Nhà Vua thầm kinh dị liền xa giá đến hỏi vị A La Hán rằng:

- Nước của sông lớn mà người dân lấy đi như vậy có làm giảm nguồn nước và ở có yên không, chánh sự có bình thường không, cái đức có hợp chăng. Chẳng biết việc gì xảy ra nữa?

A La Hán đáp:

- Đại Vương trị nước đã thuần hóa nhân dân. Nước sông lưu chảy vì Long Vương đã từ xa do sự cầu khẩn mà làm lợi ích.

Do vậy, Vua hồi giá dựng đền thờ Long Vương. Có một người con gái bị chết chìm, đến nói rằng:

- Con bị chết sớm, Vua không có người nối dõi cho nên nước sông kia còn chảy thì làm cho nông dân thất lợi. Vua nên tuyển một người trong quốc nội gã cho con thì nước sẽ chảy trở lại như xưa.

Vua đáp

- Ta đồng ý ước muốn của ngươi.

Con rồng vui vẻ với vị Đại Thần. Vua liền hồi giá họp quần thần lại và bảo.

- Đại thần của các nước đã trấn giữ. Sự ăn uống của con người là do nông vụ cung cấp. Nước mà không có sự trấn giữ thì sẽ nguy nan. Người mà không ăn sẽ chết. Sự nguy hiểm của chết chóc đến có thể làm gì được.

Đại thần rời khỏi ghế quỳ xuống mà tâu rằng:

- Đã lâu rồi lãnh trọng trách nầy thường muốn báo đền ơn nước mà chưa gặp lúc. Nay phần dự tuyển nầy đã đến, thật là đúng lúc. Há trong bá tánh chỉ có một mình thần, mà thần là cánh tay phải của đất nước. Đất nước đối với người là chánh. Nguyện đại vương nên xét lại, vì hạnh phúc của người dân mà tu phước kiến tạo Già Lam

Vua đã theo sự mong cầu mà làm trong vòng một ngày. Vị thần kia được thỉnh vào Long cung và đã cùng quốc dân đánh trống thổi nhạc ăn uống. Rồi vị thần đó mặc áo cỡi ngựa trắng từ tạ Vua, cảm tạ Quốc Dân, cùng ngựa lặn vào trong nước. Vào trong nước mà không bị chết đuối, rồi chạy dọc theo dòng nước. Nước đã mở ra rộng dần, rộng dần mãi, còn con Bạch Mã thì nổi lên mang lên một trống chiên đàn cùng một phong thư. Trong thư đại ý viết rằng:

- Đại Vương rất là tử tế tuyển chọn thần không sai. Nguyện vì lợi ích của quốc dân mà làm thần. Cái trống lớn nầy nên treo phía đông nam của thành. Nếu có kẻ cướp đến, đánh trống lên sẽ bị chấn động, nước sông sẽ chảy.

Cho đến bây giờ người ta vẫn còn lợi dụng, nước chảy nhưng thời gian năm tháng cái trống của rồng không còn nữa và sự linh nghiệm của ngày xưa, bây giờ chỉ còn một cái ao hoang phế nằm bên cạnh Già Lam chẳng có Tăng đồ.

Cách Vương thành về phía đông hơn 300 dặm, có một đầm lớn hoang sơ. Trong đó có mười khoảng đất trống không có cây cỏ. Đất ở đây màu đen màu đỏ. Nghe các bậc kỳ lão kể rằng:

Đây là nơi bại quân. Ngày xưa hàng trăm vạn binh lính từ phía đông kéo qua xâm lăng. Lúc ấy Vua Cù Tát Đản Na cũng chỉnh trang binh mã, số hơn vạn người chống lại quân bên đông. Khi đến đây, hai bên quân lính xáp trận đánh nhau. Binh phía tây thất lợi nên binh phía đông thừa thắng tàn sát và Vua cũng bị giết cho nên thù nầy sĩ tốt chưa phục hận được và máu huyết ấy nhuộm đất nầy trở thành màu như vậy.

Cách chiến địa về phía đông hơn 30 dặm đến thành Câu Ma. Nơi đây có khắc một tượng Phật đứng bằng cây Bạch Đàn cao hơn 2 thước, rất linh ứng, thường chiếu ra ánh sáng. Phàm có kẻ tật bịnh đến cầu nguyện. Họ dùng vàng lá dán lên tượng và dùng tâm chí thành cầu nguyện bịnh kia được thuyên giảm. Nghe người xưa nói lại rằng:

- Tượng Phật ấy ngày xưa khi còn tại thế do Vua Ô Đà Diễn Na của nước Kiều Thường Di làm nên. Sau khi Phật Nhập Diệt rồi. Tượng ấy tự bay lên hư không đến nước nầy và ở thành Yết Lao Lạt Già nằm phía bắc. Lúc đầu, khi tượng vừa đến thành thì nhân dân an lạc giàu có. Sự thâm tín tà kiến bây giờ không còn trân quý nữa. Họ truyền nhau rằng từ đó thần không được quý trọng. Sau đó có một vị A La Hán đến lễ bái tượng và người dân rất kinh ngạc lạ lùng trước dung mạo và y phục cho nên mới đến tâu Vua và Vua hạ lệnh lấy đất cát để phủ lên người nầy.

Thời A La Hán bị đất cát phủ lên thân, không ăn uống gì được. Lúc bấy giờ có một người chẳng nhẫn được vì ngày trước thường cung kính tôn trọng lễ bái tượng nầy, lại thấy vị A La Hán không ăn uống được cho nên vị A La Hán đến bảo người này rằng sau bảy ngày thường có mưa, cát và đất sẽ chôn lấp đầy cái thành nầy, không trừ một loại nào. Ngươi nên biết mà hãy đi sớm đi. Nếu mà bị bột phủ lên tôi thì tai ương không thể lường được. Nói xong rồi đi không ai thấy nữa. Người ấy vào thành báo cho mọi người biết.

Có người nghe chưa tin mà còn cười. Đến ngày thứ hai gió lớn thổi đến, mưa nặng hạt, nước dâng lên đường. Người mà bị chửi bới đó bây giờ họ mới biết tâm của người nầy và họ đã mở đường sống bằng cách đục một cái hang ra khỏi thành. Đến đêm ngày thứ bảy, mưa cát và đất đầy trong thành. Mọi người ra khỏi thành bằng đường hầm. Đi về phía đông đến nước này dừng lại ở thành Câu Ma. Người lạ lùng đó đến viếng tượng nầy cúng dường mà không thể di chuyển cái tượng được. Nghe người xưa kể lại rằng:

- Khi Giáo Pháp của đức Như Lai diệt tận rồi, tượng nầy sẽ vào Long cung và bây giờ tượng còn ở tại nước thành Yết Lao Lạt Già. Đa phần các vị quân vương của các nước khác đều muốn đào lên để lấy Bảo Vật nầy; nhưng liền bị gió mạnh thổi đến một cách tàn bạo, khói lửa sấm sét nổi lên bốn bề, không thấy đường sá. Sông Côn Ma ở phía đông cát tràn vào đầy. Đi hơn 200 dặm, đến thành Ni Hoạch. Chu vi thành nầy khoảng ba bốn dặm.

Tại giữa hồ, nước rất nóng, khó có thể lội được. Cỏ cây hoang tàn chẳng mọc được, chỉ có một con đường thông qua thành có thể đi được mà khách vãng lai chưa biết lý do thành nầy. Nguyên do là Vua Cù Tát Đản Na đã vì biên giới phía đông mà phòng ngừa cho nên từ đây qua đông phải vào trong một bãi cát lớn. Bãi cát đó tụ tán tùy theo gió thổi. Người đi khó để lại dấu vết, nhiều lúc quên đường. Bốn phía mênh mông chẳng biết nơi đâu. Có nhiều khách vãng lai đã để lại hài cốt nơi nầy.

Hiếm nước, cỏ nhiều, gió nóng. Khi gió thổi người và vật bị hôn mê, nhân đây thành bịnh. Lúc ấy nghe tiếng ca hát hoặc nghe tiếng khóc lóc bi thương. Khi nghe thấy như vậy thì bỗng nhiên chẳng còn thấy đâu nữa mà mạng mình cũng bị diệt vong theo. Đây là do quỷ mị hôn ám che lấp vậy. Đi hơn 400 dặm đến nước Đổ La. Nước nầy thành không nhà trống tất cả đều hoang phế. Từ đây đi về phía đông hơn 600 dặm, đến nước Kỳ Ma Đà Na.

Nước Kỳ Ma Đà Na thuộc xứ Ổn Mạt, thành quách xiêu vẹo. Chẳng thấy một bóng người. Từ đây đi về phía đông bắc hơn 1000 dặm, đến nước Nạp Phạt Ba tức là thuộc đất Lầu Lang. Nơi đây sông núi hiện hữu nhưng khó tường. Nước nầy phong tục cương nhu. Đất nước gió lửa động tĩnh khó lường.

* * *

Sự thế khó lường chẳng biết nói sao cho đủ. Sự ra đi đã được tùy nguyện nên sự trở về chỉ lược nói như thế thôi. Ai nghe biết được việc nầy mà cảm hóa, thì cũng biết rằng ngày tháng đã trôi qua và tương lai sẽ thấm nhuần ơn huệ. Gió bụi trên đường dài cùng với lòng khát ngưỡng cái đức ở trong thiên hạ mà giữ lấy bên trong. Cái đức đó đồng với thiên hạ trong vũ trụ nầy. Há một kẻ đơn thương độc mã ra đi làm sứ giả thông qua vạn dặm. Chẳng đúng sao?

Ghi lại nơi đây rằng thật là vui thay. Pháp Vương đã ứng thế vận chuyển đã giáo hóa sinh linh. Dùng thần thông để biến hoá nơi hư không cho đến hình thức con người nơi sa giới. Tất cả đều khởi lên sự cảm tạ nơi kiếp trần ai. Hình hài tuy mai một nhưng sự ứng hóa thì chẳng sanh. Thâm tạ nơi hiển thị tịch diệt nhưng thật ra không diệt. Há thật nơi dòng họ Thích Ca mà giáng thế, nơi Sa La diệt độ, phải nên biết rằng đó chỉ là ứng vật giao linh. Cảm đến nhân duyên mà tồn tại, làm cho mọi loài được lợi lạc. Nơi dòng họ Thích Ca là bậc trung tôn kính ngưỡng.

Đối với bên ngoài đã từ bỏ ngôi vị Kim Luân mà ngự phục trong Pháp giới, bỏ sự giàu sang mà nhiếp hóa hàm sanh trong mười phương. Biết tất cả vạn vật tuy rằng khó ra khỏi mà ai nghe được ba lần chuyển Pháp Luân trong đại thiên. Âm thanh chấn động đến mọi loài, tám vạn pháp môn riêng biệt, mười hai bộ kinh làm tông yếu. Đây là văn giáo làm tươi nhuận quần sanh. Phước đức giống như rừng, gió mưa như trống giục. Chở nơi này đến nơi thọ mạng, mà Thánh Hiền do nghiệp dĩ mà thành.

Trời người cũng nằm trong nghĩa ấy. Sau nầy quên đi sự động tịch giữ vững nơi rừng sâu, biết trước sau thế gian đều là huyễn cảnh, nhưng không thể chờ đợi, chẳng có gì mà không toại nguyện. Tôn giả Ca Diếp đã chọn ứng chân, muốn báo ân Phật liền vân tập Pháp bảo, gồm lại trước sau ba tạng thiết yếu. Vì sự chấp trước của bộ phái mà giáo pháp có khác nhau trong sự tồn tại.

Từ khi giáng sanh cho đến khi thác hóa, nơi Thánh tích cả ngàn sự biến dạng linh hiển vạn năng. Điều linh hiển ấy khôn cùng. Dạy cái lẽ vô vi mà mới thêm vào cho đẹp kinh văn. Rồi biên chép rõ ràng lưu truyền sau đó trở thành lời nói. Tuy khác nghĩa nhưng hổ tương nhau đầu đuôi đều là những lời chân chánh. Vì sự thật mà sao lục lại, vì đại chúng mà luận nói nghĩa văn. Huống gì Chánh Pháp lại thâm sâu mà lý giải lại nông cạn. Sự nghiên cứu về áo nghĩa cũng như văn chương có nhiều sự liên hệ, cho nên trước phải tu cái đức, kế tiếp mới học cái việc dịch kinh để cho người sau làm mô phạm vì thế mà giản lược lời văn, mà ý nghĩa lớn vẫn không bị che lấp. Lời nói ấy chưa được nghe, thì giáo pháp lần lần lưu chuyển.

Qua nhiều năm tháng bắt đầu từ nhà Hán đến bây giờ. Vua ra lệnh truyền dịch để đời đời được lưu danh sáng ngời nơi hậu thế. Cái lẽ huyền diệu của Đạo chưa được hả dạ mà cái chân tông ấy như là mùi ngon. Chẳng phải bậc Thánh dạy để làm hành trạng mà do Vua được phong hóa có nên. Ta đã được sinh ra trong triều đại nhà Đường làm cái việc nổi trôi nơi Hải ngọai. Khảo sát những hành tung của Thánh Nhơn vì tiên vương mà tìm nên điển cũ. Nhằm thời tượng pháp khuất đi lời dạy mà đạo chẳng phải là cái không không.

Sự truyền thừa là do cái đức sáng làm cho ba thừa áo nghĩa che khuất cả nghìn năm, mười lực hiển linh xa xôi ngoài vạn dặm. Thần thông chẳng có nhưng lời dạy của Thánh ly kỳ cho nên chờ nhân duyên thuận tiện mới dùng lời nói để làm tin. Phàm Huyền Trang Pháp Sư nầy việc chú giải rõ ràng lưu chuyển như sấm như nước cuồn cuộn chảy như sông kia, đó đều do cái đức bên trên mà làm tỏ rõ vậy. Thân ngũ uẩn điều hòa thuận lợi là do hợp với cái đức của lòng người. Sống trong sạch ra đi đơn độc là do cây phước lấy làm nhơn. Thân mệnh nầy ngẫu nhiên trôi nổi ở trong kiếp phù trần ở yên học tập.

Thờ thầy trước với lời giáo huấn, ngưỡng vọng cái triết lý sâu xa, vì cái đức mà phụ tất cả để ra đi học hỏi. Đi đến nơi xa xôi để học tập rồi lưu lạc nơi xứ người. Trải qua không biết bao nhiêu nơi chốn. Bỏ lại sau lưng ba sông mà vào nước Tần, đi bộ ba phen vào nơi đất Thục, rồi đến nước Ngô, học hỏi tìm cầu nhận được bao nhiêu lời khưyến khích của những bậc mẫn thế anh hiền. Thông cảm cho ý chí cầu pháp mà vì những dư luận xôn xao. Khảo sát lòng người tìm kẻ chuyên môn giúp sức. Sự ghen ghét của người ngoại đạo, do tấm chân tình trải rộng bàn sâu mà ý chí còn tồn tại để khảo tra tinh tế.

Thuộc bốn biển, lại có nơi cắt đứt gặp tám bề chẳng phải không Nghiêu. Vào ngày mồng một giữa mùa thu năm Trinh Quán thứ ba, đã y áo ra đi, chống gậy mà thẳng tiến. Nhờ ơn đức của Vua mà hỏi đường ra đi chỉ một mình cô độc. Khỏi cửa thiết, gặp cửa đá hiểm nguy, vào rừng sâu vượt núi tuyết gian nan muôn phần. Nhiều lần khó khăn mới đến được Ấn Độ. Thấy phong tục tập quán của nước đặc thù như thay đổi vào lãnh vực khác. Tự thân lo học Phạn ngữ tìm cầu triết nhân. Những điều nghi đã được rõ nhờ chữ nghĩa phơi bày. Yếu chỉ học vấn rộng rãi tài cao cũng nhờ hồng ân gia hộ mà thâm sâu diệu lý.

Đó là cái đạo của con người vậy. Nghe cái điều chưa từng nghe, được những gì chưa từng được. Vì đạo tràng mà làm lợi ích cho mọi người, đã trở thành Long Tượng trong Pháp Môn tu học. Biết được cái đạo phong như thế nên chiêu mộ trước tác. Với đức hạnh cao minh cùng cái học sâu dày xa xôi nơi vạn dặm, mà người Ấn Độ ngưỡng vọng cái đức nầy. Mắt thấy tai nghe và nhìn xem Pháp tướng là học trò của tiểu thừa ngài Mộc Xoa Đề Bà (Thoát Thiên) là học trò của Đại Thừa hiệu là Ma Ha Già Na Đề Bà (Đại Thừa Thiên) đều là những bậc đức cao hạnh cả truyền lại. Cung kính những bậc Thầy nầy mà tạo thêm danh tiếng.

Cho đến việc ý nghĩa của ba thừa ba lần thỉnh của lời xưa. Nghiên tầm sâu xa cặn kẽ nguồn chơn lưu chuyển. Biết rõ cái Diệu Lý vô cùng như cành lá, rồi hoát nhiên trí huệ khai thông. Lý nào rồi cũng thuận, việc nghi ngờ nào rồi cũng rành rẽ phơi bày. Nghĩa là rõ cái nghĩa và thông cái ý như chuyên chở được gió mát trăng trong mà học cái điều cao rộng để cái đức làm hưng thạnh cho đời. Như thế đó mà trải qua sông núi, bồi hồi nơi làng ấp. Ra khỏi thành nầy vào nơi Lộc Uyển rồi đi đến rừng kia gặp động Kê Túc. Trở lại nước Bào Ca Di, lưu nước mắt nơi thành Câu Thi cũng như nơi ngài giáng thế.

Rồi băng sông vượt suối tìm đến dấu tích cũ chốn Linh Sơn. Đối trước cảnh cũ như mang mang. Thấy di tích ngày xưa còn đọng lại. Ngưỡng mặt lên chỉ còn trách than dài. Chẳng biết gì hơn là nỗi niềm bi thống. Hận mình quá xa di vãng và bây giờ chỉ có cách làm rõ đức của Thích Ca. Vẽ lại sự thật của Ấn Độ từng phong thái được ghi ra nhiều Thuyết khác mà năm tháng đã trải qua. Sự lạnh lẽo của đêm đông, sự nhớ mong niềm vui cố quốc nhưng không quên tìm ra dấu tích, và thỉnh được:

- Nhục xá lợi của Như Lai được 150 viên.

- Một bức tượng Phật vàng cao độ 6 tấc.

- Lại có thêm ảnh tượng nơi nước Ma Kiệt Đà của thần rồng trước khi thành Chánh Giác.

- Lại một tượng bằng vàng khác chiếu sáng hào quang cao hơn 3 tấc 3.

- Tại nước Bà La Ni Tư, nơi vườn Lộc Uyển với thân thế sơ chuyển Pháp Luân. - Rồi một tượng Phật bằng Bạch Đàn với tư thế hào quang chiếu rọi cao 5 tấc tại nước Kiều Thường Di do Vua Xuất Ái cảm thâm ân Như Lai mà cho điêu khắc trên gỗ Bạch Đàn.

- Lại một tượng gỗ Bạch Đàn khác cao 2.9 tấc với dáng ngồi phóng quang thuộc nước Kiếp Tỷ Tha, khi Như Lai từ Thiên Cung bước xuống.

- Một tượng Phật bằng bạc với dáng ngồi phóng quang cao 4 tấc từ nước Ma Kiệt Đà ở Linh Thứu Sơn thuyết pháp.

- Lại một tượng Phật bằng vàng ngồi phóng hào quang cao 3.5 tấc tại nước Na Yết La Yết, với hình dáng hàng phục Độc Long.

- Lại một tượng Phật bằng trầm ngồi phóng hào quang cao hơn 3 tấc tại nước Tỳ Xá Ly khi đi tuần hành.

- Đại Thừa Kinh gồm có 224 bộ

- Đại Thừa Luận gồm có 190 bộ

- Thượng Tọa Bộ Kinh, Luật, Luận 14 bộ

- Đại Chúng Bộ Kinh, Luật, Luận 15 bộ

- Tam Di Đề Bộ Kinh, Luật, Luận 15 bộ

- Sa Di Tắc Bộ Kinh, Luật, Luận 22 bộ

- Ca Diếp Tý Da Bộ Kinh, Luật, Luận 17 bộ

- Pháp Mật Bộ Kinh, Luật, Luận 42 bộ

- Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Kinh, Luật, Luận 67 bộ

- Nhơn Luận 36 bộ

- Thanh Luận 13 bộ

- Những bộ khác khoảng 520 quyển.

Tổng cộng là 657 bộ để hoằng truyền Thánh Giáo vượt qua những chặng đường khó khăn hiểm trở mới chuyên chở được trở về. Ra khỏi nước Xá Vệ rồi lần dò đến thành Già Da, Bồ Đề Đạo Tràng. Xuyên qua núi non hiểm trở; vượt qua sa mạc gay go.

* * *

Vào tháng giêng mùa xuân năm Trinh Quán thứ 19 (645) về đến kinh thành. Về đến Lạc Dương, liền được triệu thỉnh phiên dịch kinh văn. Triệu tập những người có học để hoàn thành sự nghiệp. Mưa Pháp lại bao trùm, ánh sáng mặt trời lại rạng tỏa. Vì mạng mạch lưu thông giáo hóa nơi non Linh Thứu và cũng vì huyền nghĩa nơi Long cung mà diễn dịch cùng với hình tượng mang về. Pháp sư là bậc thâm diệu vô cùng Phạn Ngữ cho nên đã giải nghĩa kinh văn một cách sâu sắc. Biết rành mạch văn như thế nào rồi, chuyển âm ấy ra như tiếng thật.

Cung thừa Thánh chỉ, tuy văn mạch không hay, phương ngôn chẳng thông. Phạn ngữ không rành hết, nhưng vì nhiệm vụ phải chu toàn, để thu thập phần chánh yếu của kinh điển, cho nên phải tham khảo vì sợ sai sự thật, mà có điều phạm với người xưa. Nhọc tới hình hài liên hệ đến sắc tướng, rồi nghiễm nhiên như thế mà tiến hành Tây du.

Phàm Ấn Độ là một quốc gia mà nơi các bậc Thánh đã giáng sanh, là nơi những bậc Hiền minh trụ thế. Sách vở được gọi là Thiên Thơ, tiếng được gọi là Thiên Ngữ. Văn chương sâu kín, âm vận khó lường, hoặc một chữ có nhiều nghĩa, hoặc một nghĩa có nhiều chữ, nghe thật khó hiểu phải điều hòa âm tiết. Tiếng Phạn thật thâm sâu, dịch phải là người thật giỏi mới diễn tả hết thật nghĩa mà cái nghĩa đó gồm cả cái đức nữa. Với ngòi bút dịch thuật như thế phải điều hòa cung điệu như dây đàn thật không phải dễ.

Đúng hay không đúng không phải là điều luận nghị, mà cái chính là truyền đạt được cái thâm sâu của kinh điển, là nhiệm vụ rõ ràng. Cẩu thả sẽ không giống bản gốc đó là cái Thiện của người dịch. Văn chương không phải màu mè, mà cái chất lượng là điều quan trọng không thể quên được. Khi biện bạch mà không có chất lượng không thể thắng được, bắt đầu bằng những điều như thế mà phiên dịch. Lý Lão nói rằng:

- Kẻ dùng lời hoa mỹ là kẻ khó tin, mà tin được kẻ đó phải là người không hoa mỹ.

Hàn Tử nói;

- Cái lý mà đúng nằm ở nơi lời nói thẳng. Kẻ nói lời trang sức để làm rõ cái lý, thì biết rằng chưa thuận với sư phạm. Cái thâm thúy của sự vật ý nghĩa vốn giống nhau. Huống đây là giáo pháp cao siêu phải làm sao cho tồn tại cái niềm hỷ lạc. Sai bản gốc, khác lời văn là một sự tai hại lớn. Mà sự sơ suất đó do lời văn xưa mà đấng Pháp Vương đã hình thành.

Sào Tố Kiểm nói:

- Diệu vợi thay! lời nói thẳng mà ngày xưa đức Khổng Tử còn tại thế đã nghe nói văn và người là một không thể riêng biệt mà có, cho đến sách Xuân Thu ngòi bút liền bút và lời liền lời như học trò tắm vào mùa hạ. Văn học của cửa Khổng thường chẳng phải chỉ một từ, còn Pháp sư dịch Kinh lại cũng ví như thế. Nếu chẳng phải vậy thì làm sao có thể hiểu nghĩa được câu văn và trách nhiệm ấy thuộc về người cầm bút. Huống hồ đây là vì Đời và vì Người, mà ghi khắc lại để cho đời sau. Có thể tăng thêm sự tổn hại Thánh Chỉ, nếu dịch sai ý Kinh Văn.

Biện Cơ nối dõi nhớ ít, trong những điều cao cả mà năm năm đã dùng ý chí để học hành. Bỏ áo mão từ quan làm đệ tử của Pháp Sư Đạo Nhạc thuộc Tác Bà Đà Bộ chùa Đại Tổng Trì. Tuy gặp đá tốt nhưng cây khô khó khắc, để cho lời Pháp lưu truyền, mỡ thoa không thấm, nhân công ăn tốn mà ngày tháng cứ qua. Ngồi nhìn tường qua năm tháng cứ thế mà trôi. Đến kỳ lễ Hội phụ lòng kẻ có công đã rộng tay bảo bọc. Chừng ấy mệnh lệnh mà tài trí lại thường, chỉ nương vào ý chí mà làm. Học chưa thông bác cổ, Văn cũng không diễm lệ nhu mì.

Mài dũa làm đẹp. Sức lực mõi mòn chỉ cung thừa chí nguyện mà ghi lại, để viết thành Văn. Thượng Thọ dâng bút tạo lễ hoàn thành. Trí thiển có thể lệch lạc, nhiều điều thất thoát, hoặc tươi sáng thường chẳng sai lầm. Ngày xưa Tư Mã là sứ giả của Trương Lương là bậc tài đức đã viết tựa công thơ cho Thái Sứ nhưng cha con kế nghiệp, hoặc có tên mà không có chữ, hoặc có tên huyện mà không có tên quận. Cho nên nói rằng một người mà tinh thông suy nghĩ thì câu văn già dặn, vì không rõ vậy. Huống gì kẻ trí ngu mà có thể lãm tường được tất cả.

Lại phong thổ tập tục khác nhau, ghi lại những cương giới vật sản. Tánh trí cũng khác biệt. Thời tiết lạnh nóng khó lường. Cho nên viết lại có ưu có nhược, chỉ lấy cái gốc thật và tánh để gọi xưng tên nước. Về phong hóa của nước Ấn Độ, xấu tốt phân chia và trong sách nầy chỉ khái lược mà thôi như ở phần vào đề đã nói. Nghĩa là làm người khách thì vấn đề lễ nghi càng phải cẩn trọng hơn. Những kẻ chứng đắc hoặc những người mặc y hoại sắc cũng chưa ghi rõ ràng. Chỉ nhờ vào thần thông của Phật mà tiếp nhận sự linh thiêng kỳ diệu chưa tường.

Cho nên nói rằng thần thông ấy là một đạo thẩm sâu mà con người không thể dùng lý để giải được. Sự linh thiêng u hiển là cái sự để ra khỏi bầu trời. Đây là lãnh vực nơi Phật giáng thế,mà bậc Thánh ngày xưa đã truyền lại cái đẹp đẽ ấy. Lược tuyển những điều linh dị để góp nhặt ghi vào đây. Đường đi diệu vợi, nơi chốn trở về và cuộc hành trình ấy đã viết nên thành sách, chẳng phải ghi hết nơi tập sách nầy.

Cho nên ở Ấn Độ không có biên giới để ngăn chặn sách vở của nước, khác trong từng khu vực. Vì vậy sách vở đã theo người trở lại đây. Kẻ viết lời ấy đã đích thân nghe và ghi lại được mà giải rõ trong sách nầy, hoặc tạo thành câu văn, để thấy chỗ tốt hoặc là chỗ yếu mà thuật lại như trên, vì nhiệm vụ đã sao lại như thật. Sau đó kính dâng lên Hoàng Đế vào tháng 7 mùa thư năm Trinh Quán thứ 20 (năm 646 ND).

Dừng bút, dứt lời tạo thành một bức tranh chữ nghĩa và mong Thánh Hoàng chiếu giám để cho tỏ mặt Thiên Nhan, mà bày hết cái chỗ vô cùng, với lòng thành thật được triều đình cảm hóa, hoài mong gửi đến thành thật tấu bày.

Tiên Vương linh thiêng chiếu giám trong cảnh hoang sơ chẳng phụ công phụ vương mà biết được ngàn dặm, nghe và thấy được công đức kia, từ núi Linh Thứu ở nơi xa xôi; Vườn Lộc Uyển xứ ấy ngàn dặm xa vời như hiện ra trước mắt. Tưởng như đích thân mình đi đến đó mà trong kim cổ chưa từng nghe biết. Những điều chưa nghe, chưa biết đó đã ghi lại ở trước rồi. Đây là do cái đức thọ mệnh đặc thù của quân vương mà có được. Thuần phong mỹ tục ở cánh cửa phương xa, thật khó mà hiểu hết. Là điều ở bên ngoài mà do địa phương núi sông cách trở. Ban bố sách nầy ra khắp nơi, vì sự hiểu biết của người khác mà biên tập thành.

Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển thứ mười hai

-ooOoo-

Dịch tổng cộng 12 quyển xong vào ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi Nhằm ngày Vía Đức Phật A Di Đà 17 tháng 11 năm Quý Mùi, PL 2547

Công đức Phiên dịch lớn vô cùng
Phước báu vô biên hồi hướng chung
Nguyện cầu chúng sanh trong pháp giới
Tất cả sanh về cõi Tây phương

Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo

HT Thích Như Điển




Có phản hồi đến “Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển Thứ 12 - Phần 2”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com