Để báo hiếu cha mẹ, người ta thực hành 2 loại hiếu theo lời Phật dạy là "Hiếu thế gian" và "Hiếu xuất thế gian".
Hiếu thế gian là cung dưỡng cha mẹ cơm ăn, nước uống, chỗ ở nơi nằm, chữa bệnh thuốc thang, tiện nghi sử dụng... Hiếu xuất thế gian là đưa cha mẹ vào lễ nghi giáo hóa, đi chùa đi chiền, bỏ điều ác làm điều thiện để khi chết được siêu sinh tịnh độ. Đến cha mẹ bảy đời đã mất thì làm lễ cúng dàng xá tội vong nhân để được vãng sinh.
Vu Lan - báo ân đức cha mẹ
Ba chữ "Vu lan bồn" là chuyển âm tiếng Phạn đọc là Ullambana, nghĩa Hán dịch là Đảo huyền, nghĩa tiếng Việt là Treo ngược. Tất nhiên, Ullambana trong tiếng Phạn được dùng với nghĩa bóng để chỉ nỗi khổ của những người bị đọa vào kiếp Ngạ quỷ ở cõi Diêm phù đề, chịu nỗi đau như người ta bị treo ngược vậy.
Hai chữ Đảo huyền trong chữ Hán, với nghĩa bóng mở rộng, chỉ nỗi đau khổ thống thiết nói chung, sau đó, nhà Nho cũng hay dùng. Hai chữ Treo ngược trong tiếng Việt thường chỉ mang nghĩa đen mà thôi. Tiếng mình nó vậy. Cũng có sách giải nghĩa hơi khác nhưng đó là các dị nghĩa xuất hiện trong quá trình truyền bá Phật giáo.
Tín ngưỡng Vu Lan bồn có từ văn hóa cổ xưa của Ấn Độ, trước cả khi Phật giáo ra đời. Trong sử thi cổ đại Mahabharata người ta đọc thấy nhiều lần nhắc tới việc hành lễ Vu Lan bồn rồi. Như vậy, Phật giáo đã tiếp thu nền tảng tín ngưỡng đó và điển phạm hóa thành pháp hội và ghi thành truyền thuyết trong Kinh tạng của mình.
Tuy nhiên, không loại trừ sự tích hợp rộng lớn hơn vì ta thấy trong văn hóa Hy - La, thời gian này (tháng Tám - August, cũng là tháng xá tội cho phạm nhân - tháng giữa Ấn Độ, phương Tây, và Trung Hoa có sự xuất nhập phức tạp trong lịch sử). Một cội nguồn đa nguyên (từ trước) và một vận động đa dạng (về sau) chính là những điều phải tính đến khi tìm hiểu nó.
Khi đã vào Kinh tạng của Phật giáo, nó thường được kể theo truyền thuyết Mục Kiền Liên cứu mẫu. Mục Liên là đệ tử bậc nhất của đức Phật, người đã từng cùng đức Phật đi giảng đạo, ông tu hành đạt đến đẳng Đại A La Hán.
Trước hết, ta tặng cha mẹ bằng sự sám hối của lòng mình. Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày. Cái sự đời đó thì cần sám hối. Ta tặng cha mẹ bằng sự cố gắng và tử tế của lối sống của chúng ta với tất cả mọi người, cả thế gian và thiên nhiên.
Mục Liên dùng thiên nhãn của mình thấy được mẹ bị đầy xuống cõi Diêm phù làm kiếp Ngạ quỷ, đau khổ, đói khát. Thương mẹ, ông đưa thức ăn nhưng đến miệng lại hóa ra lửa. Ông cầu đức Phật bày cho cách cứu mẹ. Đức Phật dạy rằng, đến rằm tháng Bảy, mùa chư tăng tự tứ (hết hạ) thì làm năm trăm mâm cỗ, chủ yếu là mâm ngũ quả, cung dưỡng 10 phương.
Ông làm vậy và mẹ ông, bà Thanh Đề, xả hết 10 tội bà mắc khi tại thế để lên được cõi trời Đâu Suất. Từ đó mà có pháp hội Vu Lan bồn. Vì bà Thanh Đề có hai tư cách: làm Mẹ và làm Ngạ quỷ nên cứu mẹ cũng là cứu Ngạ quỷ, điều này là quan trọng khi hiểu đạo Hiếu trong đạo Phật nói chung.
Ở phương Đông, trên đất Trung Hoa, theo truyền thuyết, thời nhà Lương đã mở hội Vu Lan bồn để báo ân đức cha mẹ tổ tiên, sau đó nhà Đường thì phát triển mạnh mẽ ra chốn dân gian. Ở Việt Nam, chắc thời Bắc thuộc cũng đã hành lễ ở các chùa thời đó nhưng sách vở ít ghi lại. Thời Lý, trong bia tháp Sùng thiện Diên linh hiện tồn, khi nói về tài khéo của Lý Nhân Tông khi tổ chức pháp hội trên Lô Giang (sông Hồng) vào rằm Trung Thu, đã nêu lý do về Hiếu đạo với cha mẹ.
Chúng tôi cho rằng, đây là vang bóng của hội Vu Lan bồn vì cổ xưa, tháng ở Ấn Độ chênh một tháng với tháng phương Đông. Thời Trần chắc chắn đã có lễ vì trong bài tựa sách Khóa hư lục, Trần Thái Tông đã mở đầu thiết tha bằng nỗi thương cha nhớ mẹ mà tìm đến đạo khóa hư tức đạo Phật.
Chắc chắn Vu Lan bồn kinh và kinh luật về hiếu hạnh đã phổ biến. Kinh chắc là đi kèm với lễ. Bởi ảnh hưởng đậm đà của Nho giáo mà trong pháp hội Vu Lan, người ta trọng chữ hiếu với cha mẹ và tổ khảo bảy đời. Điều đó là đúng trọng tâm nhà Phật nhưng chưa đủ, mà có phần hẹp hòi.
Để báo hiếu cha mẹ, người ta thực hành 2 loại hiếu theo lời Phật dạy là "Hiếu thế gian" và "Hiếu xuất thế gian". Hiếu thế gian là cung dưỡng cha mẹ cơm ăn, nước uống, chỗ ở nơi nằm, chữa bệnh thuốc thang, tiện nghi sử dụng... Hiếu xuất thế gian là đưa cha mẹ vào lễ nghi giáo hóa, đi chùa đi chiền, bỏ điều ác làm điều thiện để khi chết được siêu sinh tịnh độ. Đến cha mẹ bảy đời đã mất thì làm lễ cúng dàng xá tội vong nhân để được vãng sinh.
Nhưng chữ Hiếu nhà Phật không những sâu sắc mà còn hết sức quảng bác. Kinh sách kể đức Phật đi hành giáo, gặp đống xương khô thì tỏ lòng xót thương mà nói, đây chính là cha mẹ ta. Đạo Phật dạy chí lý là: Chúng sinh trong lục đạo đều là cha mẹ ta. Lục đạo là sáu thế giới gồm Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A tu la, Người và Trời. Chúng ta là CON (về thể chất và tinh thần) của chúng sinh lục đạo đó.
Vậy, đã là con với cha mẹ thì phải hiếu. Thành thử người ta mới răn cấm sát sinh, người ta cúng cô hồn (A trà tì, một loại chúng sinh trong Ngạ quỷ), người ta phóng sinh (chúng sinh trong Súc sinh), người ta thực hành kiêng kỵ trong mùa là để khỏi xâm phạm chúng sinh - cha mẹ ta. Đó cũng là Hiếu hạnh vậy. So với cái "Tam bất hiếu" của Nho giáo trong Lễ ký và trong Mạnh Tử thì chữ Hiếu trong Phật giáo quảng đại thần thông hơn nhiều. Tuy một mà muôn, tuy muôn mà một.
Chữ Hiếu - sâu sắc và quảng đại
Về việc hành lễ, xưa và nay cũng phức tạp. Mọi lúc, mọi nơi tạo ra sự phong phú. Người ta nhận thức, hành động thường là theo kỳ vọng của mình và có tính mục đích. Kỳ vọng và mục đích mà là Tham, Sân, Si thì đó là tai họa, nghiệp chướng của giá trị văn hóa. Còn hướng đến Phật tâm, Phật hạnh thì luôn luôn tốt đẹp.
Rất tiếc là trong thời buổi hiện nay, một bộ phận không nhỏ, từ nghi lễ đến tu hành đều vướng vào lầm lỗi. Chiếm biển nước người, rút dầu ruột đất cho hết, cho cạn kiệt để thỏa tính "hiếu đại", ganh đua tăng trưởng, phô phang tiện nghi hơn người thì lễ lạt mà làm gì. Còn những người hướng đến hòa bình xanh, đến bảo tồn đa dạng sinh thái, văn hóa thì trở nên yếu ớt. Nói chung là không nên theo nhau sắm lễ cho nhiều, đốt mã cho lắm mà nên lấy cái thành tâm, cái giá trị mà hành động thì hơn.
Chữ Hiếu nhà Phật, như tôi đã nói, sâu sắc và quảng đại. Muốn hiểu nó, ta đem so với chữ Hiếu Nho gia, đặc sản Trung Quốc. Cũng là triết lý nhân sinh thôi nhưng nhà Nho quan niệm "Tam bất hiếu" như sau: A ý khúc tòng, hãm thân bất nghĩa (Tùy ý bố mẹ mà dấn vào điều bất nghĩa - đó là thứ một); Gia bần thân lão, bất vi lộc sĩ (nhà nghèo cha mẹ già mà không làm quan lấy lộc về - bất hiếu thứ hai); Bất thú vô tử, tuyệt tiên tổ tự (không vợ, không con, nên đứt mạch cúng tế tổ tiên - bất hiếu thứ ba).
Như vậy, Nho giáo, vốn là đạo dạy cho đàn ông làm quan, nên chữ Hiếu thật bó buộc. Đó là chữ hiếu hẹp hòi. Còn chữ hiếu Phật giáo từ Hiếu thuận mở rộng đến Hiếu sinh cho muôn vật trong vũ trụ này. Các vua sáng đời Trần, vốn dùng Nho để quản trị quốc gia, khi uyên thâm Phật học, họ ngấm Hiếu đạo sâu sắc nên hướng về tu hành. Đó là bước thoát Nho, cũng là thoát Trung đáng suy ngẫm.
Không phải là lễ lạt đắt hay rẻ mà tiền đó từ đâu ra, tặng quà Vu Lan với mục đích gì và với kỳ vọng gì. Tôi từng đọc được thông tin: Ông Chu Vĩnh Khang, một tham quan bị xử bên Trung Hoa đại lục, giàu địch quốc mà nghe nói đưa mẹ đi nuôi, để mẹ tự tử trong nhà thì là Hiếu cái nỗi gì vậy. Hiếu tâm là Phật tâm, Hiếu hạnh là Phật hạnh vậy. Đó chẳng là bài học nhãn tiền sao?! Đạo Phật bao dung, tùy hoàn cảnh mà hành lễ, lấy cái tâm hướng nguồn, hướng thiện làm chính.
Trước hết, ta tặng cha mẹ bằng sự sám hối của lòng mình. Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày. Cái sự đời đó thì cần sám hối. Ta tặng cha mẹ bằng sự cố gắng và tử tế của lối sống của chúng ta với tất cả mọi người, cả thế gian và thiên nhiên.
Phật giáo đang có sức lan tỏa trên thế giới. Tôi thấy những phong trào hòa bình, những phong trào bảo vệ trái đất, bảo vệ tự nhiên, bảo vệ đa dạng văn hóa trên thế giới, họ có một tầm tri thức, tâm nhân văn rất cao và đầy tính Phật. Con người là con, là tinh hoa của vạn vật, có thế, Phật giáo mới mở rộng đạo Hiếu đến thế. Ta nên gạn đục khơi trong mà tu dưỡng thêm mọi mặt. Đó là tốt nhất.
Bông hồng - biểu tượng nhắc nhở hiếu kính cha mẹ
Nghi thức Bông hồng cài áo trong ngày lễ Vu Lan, xuất phát từ áng văn viết về mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được viết vào những năm 1960. Trong một chuyến công tác tại Nhật Bản, Thiền sư rất lạ khi thấy người Nhật thành kính gài tặng ông một bông hoa trắng lên ngực áo.
Sau khi tìm hiểu và biết được ý nghĩa cao đẹp của việc này, ông đã chọn bông hoa hồng làm biểu tượng cho lễ Vu Lan báo hiếu của nhà Phật và viết ấn phẩm “Bông hồng cài áo" vào năm 1962. Bông hồng là biểu tượng của tình yêu, sự cao quý. Việc nhớ về bậc sinh thành và cài lên ngực hoa hồng cao quý là tình cảm đẹp nhất, kính trọng nhất đối với bậc sinh thành.
Mang ý nghĩa sâu sắc đó, nhiều người Việt Nam khi đến ngày Vu Lan đều cài một bông hồng trên áo. Bông hoa hồng màu đỏ là biểu tượng của việc còn cha mẹ, những người đã mất mẹ thì cài hoa màu trắng. Với những ai may mắn được cài bông hồng đỏ trên ngực áo thì được nhắc nhở hãy cố gắng hết lòng vâng lời, hiếu kính, lễ phép với cha mẹ. Còn người cài hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở không bao giờ quên ơn cha mẹ, đồng thời giữ nền nếp gia phong anh em hòa thuận." - GS.TS Ngô Đức Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Đừng nên giới hạn ngày hiếu thảo
"Mùa Vu Lan báo hiếu, những người con nên dành tất cả tâm huyết và những hành động cao quý nhất của mình để làm cho cha mẹ hãnh diện và tự hào vì có được những người con hiếu thảo.
Để tỏ lòng thành kính biết ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên, con cháu cần lưu tâm những điều sau đây: Lắng nghe những lời khuyên chân thành của cha mẹ, nỗ lực làm những điều đạo đức, hợp pháp để cha mẹ cảm thấy hạnh phúc. Dù khó khăn về vật chất, mỗi tháng các con nên trích ra một phần thu nhập để cha mẹ được an hưởng tuổi già.
Bày tỏ những lời thương yêu chân thành, truyền tải sự thương kính cha mẹ qua lời nói dịu dàng, chăm sóc những công việc trong gia đình để cha mẹ có thời gian an hưởng đúng nghĩa.
Đối với những người kém may mắn, cha mẹ đã qua đời, mùa Vu Lan báo hiếu là dịp có ý nghĩa để những người con làm lễ cầu siêu, làm phúc, hồi hướng công đức cho người quá cố thì kẻ còn lẫn người quá vãng đều được lợi lạc theo kinh địa tạng đã dạy.
Ngày 14, 15/7 âm lịch được coi là biểu tượng của ngày hiếu thảo. Trong ngày này, những người con hãy ngưng các công việc không cần thiết, đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, làm phước, bố thí, cúng dường, chia sẻ nghiệp lành nhân danh cha mẹ, ông bà, tổ tiên để góp phần tạo dựng công đức cho bản thân và người quá vãng. Đó là những điều con cháu hiếu thảo nên làm trong mùa Vu Lan.
Về phía các bậc làm cha mẹ, để hồi đáp tình cảm của con cháu, cần phải ứng xử theo tinh thần Phật dạy, xứng đáng là người cha, người mẹ có trách nhiệm, là tấm gương sáng đối với con cháu. Đừng nên giới hạn ngày hiếu thảo vào rằm tháng 7, mùa hiếu thảo vào mùa Vu Lan.
Tất cả những người con hiếu thảo phải thể hiện lời nói hiếu, hành động hiếu, ứng xử hiếu mọi lúc, mọi nơi, làm được thế thì hạnh phúc trong cuộc đời sẽ dài lâu." - Thượng tọa Thích Nhật Từ - Phó Viện trưởng - Tổng Thư ký Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
(Theo kinhtethudo)