Một hôm, Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (em gái của Thượng sĩ Tuệ Trung) mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Thượng sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng Thái hậu hỏi : “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?” Thượng sĩ cười dáp : “Phật là Phật, Anh là Anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành Anh. Em không nghe các bực cổ đức nói. Văn Thù là Văn Thù, Giải thoát là giải đó sao?” Trong bữa tiệc này có cả vua Trần Nhân Tông vua rất thắc mắc về việc này và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Thượng sĩ, nhưng chưa tiện hỏi.
Dù là bậc Hoàng Tộc tôn quý (Anh rể của Thượng hoàng, cậu ruột của vua Trần Nhân Tông) và có chức tước cao sang bực nhất trong nước, nhưng Thượng sĩ Tuệ Trung không ham thích công danh, sống thanh tịnh, an dường tu hành nơi Thái ấp Tịnh Bang, lập Dưỡng Chân Trang để tu Thiền và hoằng dương Phật pháp. Thượng sĩ sống an nhàn tự tại, hòa lẫn trong thế tục, vui trong thiền duyệt, hết lòng dìu dắt những người muốn tu hành theo đạo Phật.
Phật tử đến tham học Phật pháp, Thiền giả đến tham vấn Thiền, Thượng sĩ đều hết lòng chỉ dẫn những chỗ tâm yếu, khiến họ thông hiểu được lý đạo và ham thích tu học, không có vẻ quyền quí cao sang cách biệt với kẻ dưới, không phân biệt sang hèn, chưa hề phụ ai bao giờ.
Thượng sĩ Tuệ Trung là một cư sĩ thọ giới Bồ Tát, sống chân thực và bình dị theo tinh thần của một thiền giả, nên sống rất tự tại, phóng khoáng, không câu chấp lễ nghi, tiểu tiết Những điều luận bàn huyền nhiệm về Phật pháp là những thiền ngữ của Ngài dều được các nhà Thiền học thời đó hết sức kính trọng và vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
Năm Đinh Hợi (1287), Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm băng. Thượng hoàng Trần Thánh Tông trông lo việc triều chỉnh ở kinh đô, vua Trần Nhân Tông phải cấp tốc về đất An Bang để thỉnh cậu là Thượng sĩ Tuệ Trung về lo lễ tang. Trên đường về kinh đô bằng thuyền, có thời giờ để Thượng si Tuệ Trung và cháu (vua Trần Nhân Tông đàm luận. Trong khi đó, vua vẫn còn thắc mắc về việc Thượng sĩ ăn mặn và những câu trả lời của Thượng sĩ trong bữa tiệc mà Thái hậu đãi lần trước, vì vậy, vua hỏi Thượng sĩ : Thưa cậu, chúng sanh quen cái nghiệp ăn thịt, uống rượu, làm thế nào thoát khỏi tội báo nghiệp lực ?
Thượng sĩ đáp : Nếu có người đứng xây lưng lại, thình lình có vua đi qua phía sau lưng, người kia không biết, vô tinh ném vật gì đó trúng vào vua, thử hỏi người ấy có sợ bị tội hay không và vua có giận bắt tội hay không ? Nên biết, hai việc đó không dính dấp gì đến nhau cả. Tiếp theo đó Thượng sĩ đọc cho vua nghe hai bài kệ rong kinh sách Phật :
Vô thương chư pháp hành
Tâm nghi tội tiện sanh
Bổn lai vô nhứt vật
Phi chủng diệc phi manh
Nhựt nhựt đối cảnh thời
Cảnh cảnh tòng tâm xuất
Tâm cảnh bổn lai vô,
Xứ xứ Ba-la-mật.
Tạm dịch :
Vô thường các pháp hiện,
Tâm ngờ tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Không giống cũng không mầm
Ngày ngày thi đối cảnh
Cảnh cảnh theo tâm xuất
Tâm cảnh vốn là không,
Khắp nơi là “Niết bàn”.
Vua suy nghĩ giây lâu nhưng vẫn chưa hiểu hết ý Thượng sĩ nên lại hỏi cậu : Tuy là như vậy, nhưng nếu tội là phước rõ ràng thì làm thế nào ?
Thượng sĩ biết vua chưa hiểu rõ nên đọc thêm một bài kệ để chỉ bảo thêm :
Khiết tháo dữ khiết nhục,
Chúng sanh các sở thuộc,
Xuẩn lai bách thảo sanh
Hà xứ liến tội phúc. .
Trúc Thiên dịch :
Ăn chay cùng ăn thịt
Chúng sanh tùy sở thích
Xuân về cây cỏ tươi
Chỗ nào thấy tội phước !
Vua lại hỏi: Như vậy, việc công phu giữ giới tinh nghiêm không chút lơi lỏng là để làm gì ? Thượng sĩ chỉ cười mà không đáp câu hỏi, vua cố năn nỉ, Thượng sĩ đọc hai bài kệ ấn tâm cho vua :
Trì giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu tội bớt chiêu phúc
Dục tri vô tội phúc,
Plli trì giới nhẫn nhục,
Như nhân thượng thọ thì
An trung tự cầu nguy
Như nhân bất thượng thọ
Phong nguyệt hà sờ vi
Tạm dịch :
Trì giới và nhẫn nhục
Chuốc tội chẵng chuốc phúc
Muốn biết không tội phúc,
Không nhẫn nhục trì giới
Như người đang leo cây
Đang yên lại tìm nguy .
Như người không leo cây
Trăng gió làm gì được?
Đoạn Thượng sĩ bí mật dặn kỹ vua :
“Đừng nói với những người không hiểu biết, (Vật thị phi nhân).
Từ đó, vua Trần Nhân Tông mới biết môn phong Thiền học của Thượng sĩ cao thâm siêu việt. Một hôm khác, vua Trần Nhân Tông hỏi Thượng sĩ về “yếu chỉ của Thiền Tông” và muốn biết được bí quyết giác ngộ mà Thượng sĩ được Thiền sư Tiêu Dao truyền. Thượng sĩ ứng khẩu đáp : “Hãy quay về tự quán xét chính bản thân mình chứ không thể nhờ một người nào khác”. (phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tòng tha đắc).
Nhờ vào lời dạy thâm sâu bí yếu này của Thượng sĩ mà vua Trần Nhân Tông ngộ được yếu chỉ của Thiền tông và thấy được đường vào Đạo. Từ đó, vua Trần Nhân Tông mới hết lòng tôn kính Thượng sĩ và thờ Thượng sĩ làm thầy.
Trích Đoạn: Tuệ Trung Thượng Sĩ VớI Thiền Tông Việt Nam, Viện Khoa Học Xã HộI, Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm, Nhà Xuất Bản Đà Nẵng 2000 (trang 352-355)
....Theo Tuệ Trung, không cần phải ăn chay, trì giới vì “ăn cỏ hay ăn thịt là tập quán tự nhiên của mỗi loài khác nhau, cũng như xuân về thì trăm cây cỏ nảy nở, không cái nào là tội và cái nào là phúc”. Thậm chí ông còn bảo “trì giới và nhẫn nhục chỉ chuốc tội chứ không chuốc phúc . Thái độ quyết liệt này xét đến cùng nhằm đánh tan những đầu óc bảo thủ, cố chấp thường làm con người ta trở thành kẻ nô lệ của mọi thứ và của cả chính mình. Ở Tuệ Trung nổi bật một tinh thần “phá chấp” triệt để. Ông cực lực đả kích cái nhìn “nhị kiến phân chia mọi vật ra thành hai cực giá trị để gán cho nó một cực này hoặc cực kia. Tuy nhiên ông đã bí mật dặn kỹ vua : “Đừng nói với những người không hiểu biết, (Vật thị phi nhân). ... Lời dạy của ông là chân lý. Là cứu cánh, nhưng kẻ tầm thường thì không nên biết. Vì họ biết qua lời này họ sẽ chấp. Hoà thượng Thanh từ có giảng trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục là “Những người tầm thường, họ không hiểu nổi những ý nghĩa thâm sâu thì không nên nói cho họ nghe có hại. Những câu này chỉ nói cho người xuất cách, vượt khỏi tầnm thường nghe, hạng người này mới có đủ khả năng tiếp nhận…( Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải HT Thanh Từ Thường Viện Thường Chiếu VIỆT NAM ấn nành 1996 trang 104 )
Xem tiếp
“Đói thì ăn, mệt thì ngủ Trong nhà có của báu, đừng tìm đâu xa xôi
Đứng trước cảnh mà vô tâm thì không cần hỏi Thiền nữa..”
Tinh thần bài thơ, (Cư Trần Lạc Đạo) cũng là tôn chỉ của Đệ nhất tổ nằm ở bốn điểm :
Hãy nên sống hòa mình với đời, không câu chấp. Hành động tùy duyên, tức làm việc cần làm, đúng lúc phải làm, và không trái qui luật tự nhiên.
Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực.
Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dù là Thiền hay Phật. Tinh thần này hoàn toàn nhất quán với quan điểm của Tuệ Trung được tìm thấy qua thơ và ngữ lục của ông. Ở Tuệ Trung nổi bật một tinh thần “phá chấp” triệt để. Ông cực lực đả kích cái nhìn “nhị kiến phân chia mọi vật ra thành hai cực giá trị để gán cho nó một cực này hoặc cực kia.
Theo Tuệ trung, sự đối lập giữa “mê” và ‘ngộ”, giữa “sắc” và “không”: (Mê ngộ bất dị) giữa “phàm” và “thánh”, “ta” và“người”’ “Phật, và “chúng sinh”, “phải và “trái”, “tà” và
“chính” (Phàm thánh bất dị), giữa “phiền não, và “bồ đề”(Phật tâm ca) chỉ là một sự đối lập giả tạo. Thật sự ‘không”và “có” không khác biệt nhau, sống và chết đều từ một đợtsóng, xưa nay tất cả đều cùng một lẽ”.(2) Mọi sự phân biệt lầm lẫn chỉ dẫn người ta đến chỗ tự mua dây buộc mình, suốt đời chạy vạy tìm kiếm cái không có thực... ông khuyên “chỉ cần quên đi nhị kiến là có thể bao dung được cá pháp giới’.(a) Cũng trong tinh thần này, Tuệ Trung đã phá sự chấp trước vào cái khái niệm. Trả lời câu hỏi “thế nào là pháp thân thanh tịnh ?”, thượng sĩ điềm nhiên bảo ra vào trong nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa’. (a) Thật là một đòn chí mạng đánh vào những đầu óc mê muội, giáo điều. ông thẳng thắn chỉ rõ : “Vốn không có dơ sạch. Dơ sạch đều hư danh. Pháp thân không vướng ngại. Nào trọc lại nào thanh ?”. (4) với tinh thần cởi mở này, Tuệ Trung đã đạt đến một cách sống tự do tự tại mà Trần Nhân Tông từng ca ngợi và tâm đắc : “Trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, đối với mọi vật chưa từng xúc phạm hay trái ngược”.(5) Theo Tuệ Trung, không cần phải ăn chay, trì giới vì “ăn cỏ hay ăn thịt là tập quán tự nhiên của mỗi loài khác nhau, cũng như xuân về thì trăm cây cỏ nảy nở, không cái nào là tội và cái nào là phúc” (4) Thậm chí ông còn bảo “trì giới và nhẫn nhục chỉ chuốc tội chứ không chuốc phúc (5). Thái độ quyết liệt này xét đến cùng nhằm đánh tan những đầu óc bảo thủ, cố chấp thường làm con người ta trở thành kẻ nô lệ của mọi thứ và của cả chính mình. Nhắc đến Tuệ Trung hẳn ít ai quên giai thoại độc đáo, lý thú về việc ông dự tiệc cùng Nguyên Thánh Thiên Cảm Thái hậu,(6) gặp thịt cứ ăn ;
Thái hậu lấy làm lạ hỏi : “Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được ? ông cười đáp : “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần
làm anh. Cô chẳng nghe các bậc Cổ đức nói “Văn thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát” đó sao ?” Câu trả lời có một không hai này phải chăng là sự gặp gỡ sâu xa với quan điểm “bản lai vô nhất vật, hà xứ nha trần ai ?” (xưa nay không một vật, lấy đâu vướng bụi đời ?) của Lục tổ Huệ Năng, mặc dù Thượng sĩ không cần đến những lời lẽ quá khích như Lâm Tế “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết tổ” để biểu đạt quan điểm phá chấp triệt để của Thiền….
Chú Thích
(1) Đốn tính
(2) Mê ngộ bất dị
(3) Thượng sĩ hành trạng
(4) Trì giới kiêm nhẫn nhuục
(5) Nt
(6) Em gái Tuệ Trung và là vợ Trần Thánh Tông, mẹ vua Nhân Tông
Trích Đoạn: Tuệ Trung Thượng Sĩ Với Thiền Tông Việt Nam, Viện Khoa Học Xã HộI, Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm, Nhà Xuất Bản Đà Nẵng 2000 (trang 24-25)
(Sưu tầm)