Tất cả chúng ta đều đang sống trong Ánh sáng vô lượng (Vô lượng quang) và Đời sống vô lượng (Vô lượng thọ), trong Bổn nguyện của Phật A Di Đà, đó là điều được nói rõ ràng trong bốn mươi tám lời nguyện của A Di Đà. Tất cả chúng ta, chỉ nói rằng những con người đang sống trong trái đất này, dầu có biết đến đức Phật A Di Đà hay không, đều đang chịu khổ đau hay đang hưởng hạnh phúc- cả hai đều mong manh và vô thường như chính thế giới này-dầu là đàn ông hay đàn bà, giàu hay nghèo, dầu đang trẻ hay sắp chết, dầu là tăng hay tục, thánh thiện hay tội lỗi… tất cả chúng ta đều đang sống ở trong Bổn nguyện, trong Ánh sáng vô lượng và Đời sống vô lượng của Phật A Di Đà.
Tất cả chúng ta đang ở trong ánh sáng của Phật A Di Đà do lời nguyện thứ mười hai: “Khi tôi thành Phật, nếu như ánh sáng của tôi còn có hạn lượng, ít nhiều mà thẳng chiếu đến trăm ngàn ức triệu triệu cõi nước chư Phật, tôi quyết chẳng thành Phật”. Thân tâm của chúng ta đều được ánh sáng của Phật A Di Đà chạm đến: “Khi tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng vô biên thế giới, nhờ xúc chạm với ánh sáng của tôi, thân tâm họ trở nên mềm mại nhẹ nhàng vượt quá trời người” (Lời nguyện [LN] thứ 33).
Tất cả chúng ta, dầu đang sống và sẽ chết, dầu đã sống nhiều kiếp và sẽ còn trôi nổi rất nhiều kiếp nữa, tất cả các kiếp đời của chúng ta dù đi đâu trong sáu cõi sanh tử cũng không thể vượt ngoài Đời sống vô lượng, thọ mạng vô lượng của A Di Đà như lời nguyện thứ mười ba: “Khi tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hạn lượng ít nhất mà chẳng được trăm nghìn ức triệu triệu kiếp, tôi nguyện chẳng thành Phật”
Tất cả chúng ta đều đang sống trong “mùi hương xông khắp cả mười phương thế giới” của Phật A Di Đà (LN thứ 32) Ảnh hưởng của A Di Đà là trực tiếp lên cuộc đời của mỗi chúng ta: “Các chúng sanh trong mười phương vô lượng vô biên thế giới khi nghe danh hiệu tôi, cúi đầu lễ lạy, hoan hỷ vui mừng và tin mến, tu hạnh bồ-tát” (LN thứ 37).
Tất cả chúng ta, những sinh vật trong đại dương khổ đau, đều nằm trong mạng lưới đại bi của A Di Đà, dầu chúng ta còn ở nơi đây hay một mực muốn về tịnh độ của A Di Đà, thì cái lưới đại nguyện ấy cũng đang bao bọc lấy chúng ta và sẽ vớt chúng ta về cõi tịnh của Ngài, nếu chúng ta thật lòng muốn thế : “Khi tôi thành Phật, nguyện rằng tất cả chúng sanh trong mười phương vũ trụ nếu thật lòng tin mến, muốn sanh về cõi nước tôi và dù chỉ niệm danh hiệu tôi đủ mười lần, nếu không được sanh về thì tôi chẳng thành Phật. Chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và hủy báng pháp” (LN thứ 18).
Không chỉ lời nguyện thứ 18 là nhằm vào mỗi chúng ta, trong bốn mươi tám lời nguyện, ngoài những lời nguyện dành cho người, trời và những đặc tính thù thắng của tịnh độ, còn có ít nhất là mười hai lời nguyện trực tiếp nhằm vào mỗi chúng ta, “chúng sanh trong vô số cõi khác”, nghĩa là chúng sanh trong khắp vũ trụ. Những lời nguyện đó bao trùm toàn bộ sinh hoạt của mỗi người chúng ta, đi đứng nằm ngồi, hành động của thân khẩu ý, sống và chết, tiến hóa hay sa đọa. Toàn bộ sinh hoạt của chúng ta đều nằm trong Bổn nguyện của đức A Di Đà. Tất cả những ước vọng của kiếp nhân sinh và tất cả những khổ đau - tức là mặt trái của những ước vọng không thể nào thành đó- đều được gói trọn trong Bổn nguyện của A Di Đà. Bổn nguyện A Di Đà là ánh sáng vô ngại (Vô ngại quang Như lai) có thể soi thấu đến những chỗ tối tăm nhất trong lòng người và xuyên qua những chất cứng nhất trong thế gian tức là cái bản ngã cứng đặc kiên cường và đen tối, như thế năng lực chuyển hóa của Bổn nguyện là vô hạn. Bổn nguyện là tấm lưới của ánh sáng và đại bi trùm khắp chúng sanh ba cõi, chỉ có một niềm tin chân thành là tấm lưới ấy hoạt động để vớt cho ta lên với ánh sáng tỏa thấm tình thương vô tận.
Điều quan trọng nhất là 48 lời nguyện đó đã thành tựu từ lâu xa, từ khi Bồ-tát Pháp Tạng (Dharmakara, tiền thân của Phật Di Đà ) thành Phật đến nay đã được mười kiếp (một kiếp 4.320.000.000 năm, theo cách tính của Ấn Độ cổ thời ). Lời của Phật Thích Ca dạy trong kinh A Di Đà: “Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp”. Đó là một lý do tại sao lời nguyện được gọi là Bổn nguyện. Bổn nguyện vì nó đã có, đã được thành tựu từ rất lâu xa, và sẽ kéo dài đến mãi theo thọ mạng vô lượng của A Di Đà, và cũng chính vì thế nên chúng ta nói tất cả chúng ta đều sống trong Bổn nguyện: Bổn nguyện đã thành từ khi có thể chúng ta chưa thành một chúng sanh, khi núi sông, đất đá, cỏ cây và trái đất này chưa có, và kéo dài cho đến khi tất cả chúng ta được giải thoát và giác ngộ.
Tất cả chúng ta đều đang sống trong Bổn nguyện trong Ánh sáng vô lượng và Đời sống vô lượng (mà theo ý nguyện nhị nguyên của chúng ta, chúng ta có thể nói rằng Ánh sáng vô lượng là trí tuệ của A Di Đà và Đời sống vô lượng là đại bi của A Di Đà) trong công việc của đại bi cứu độ của A Di Đà, trong đại dương Bổn nguyện của A Di Đà. Chính vì đang sống trong đại dương Bổn nguyện tràn đầy ánh sáng của trí tuệ và sự an ủi của đại bi như vậy, và do vì so với cái hiện sinh hữu hạn, bất toàn, khổ đau, đầy mâu thuẫn xung đột và tất yếu phải chết mỗi chúng sanh chúng ta đang mang vác, mà đại dương Bổn nguyện trở thành lời kêu gọi thân thiết nhất, sự chào mời vô vị lợi nhất, nguồn an ổn đầu tiên và cuối cùng cho mỗi chúng ta. Như thế, cái gì giúp chúng ta nghe được từ đáy sâu thẳm của tâm hồn, giúp chúng ta tiếp thông được với Bổn nguyện, giúp chúng ta sống trong cảm nhận về sự hiện diện của Ánh sáng vô lượng và Đời sống vô lượng, về năng lực đại bi thu hút của Phật a Di Đà. Cái làm cho chúng ta tiếp xúc được với Bổn nguyện của A Di Đà là đức tin. Trong 48 lời nguyện nhắm đến tất cả chúng sanh trong vũ trụ ấy, đều mang nội dung của đức tin. Đức tin là sự đáp ứng sự trả lời bằng tất cả thân tâm đối với Bổn nguyện kêu gọi. Đức tin ấy có thể hình dung qua những yếu tố sau đây:
1- Một ý thức sâu sắc và tính hữu hạn, thất thường, bất định, mâu thuẫn và phải chết của con người chúng ta. Nếu chỉ đích danh hơn, những tính chất hữu hạn, mâu thuẫn nội tại… ấy là đặc tính của cái ngã và những hoạt động phiền não của nó, và trong tình trạng hiện thời, toàn bộ đời sống chúng ta dựa vào cái ngã và những hoạt động tạo nghiệp của nó, hậu quả tất yếu là những khuyết điểm, lầm lỗi và khổ đau mà chúng ta gọi là sanh tử. Nhưng để thoát khỏi cái ngã đó, với phần đông chúng sanh chúng ta là không thể, vì làm bất cứ điều gì, dù tu hành để giải thoát hay làm tốt cho người khác thì vẫn nằm trong sự giật dây của cái ngã, chỉ làm cho cái ngã, phụng sự cái ngã. Với chúng sanh chúng ta, chẳng bao giờ có thể có vị tha thực sự, lợi mình lợi người thực sự, vì bao giờ cũng có cái ta phản trắc ở trung tâm của mọi hành động. Không giải quyết được khổ đau của mình, đồng thời chúng ta cũng gieo rắc khổ đau cho người khác. Nói theo hình ảnh của kinh Pháp Hoa, chúng ta là những đứa con khốn cùng, dù có may mắn nghe được cha mình giàu có đến trùm khắp vô vàn thế giới đang ở nơi xa kia chờ mình thì chúng ta cũng không đủ sức trở về, dù có người dẫn dắt. Đôi chân chúng ta đã bại liệt vì khổ đau của sanh tử, trí óc của chúng ta đã quá nặng nề vì những màu ảo hóa mỏi mệt, chúng ta hoàn toàn bất lực. Thấy rõ sự bất lực của mình, sự mâu thuẫn nằm trong chính nền tảng của con người mình, con người khổ đau đó mở mình ra trước lời kêu gọi của đại nguyện của Phật A Di Đà.
2- Chúng ta không biết làm gì hơn là phó thác, hiến mình và tin cậy. Khi tự lực trong mức độ chúng sanh của chúng ta chỉ là thất thường, mâu thuẫn nội tại, tự lừa dối, khi toàn bộ cuộc sống chỉ là một sự bất lực toàn diện, chính lúc đó, bắt đầu sự lắng nghe sâu xa tiếng kêu gọi của Bổn nguyện, sự chấp nhận phó thác cho công việc đại bi của Phật A Di Đà. Một chuyển hóa bắt đầu xảy ra, con người từ bỏ những bất toàn, những xung đột mâu thuẫn nội tại của mình, để hòa mình vào nguyện lực của đức A Di Đà. Do đó con người thấy tha lực, tất cả đều là tha lực, kể cả những vùng vẫy tuyệt vọng của mình cũng chìm trong đại dương tha lực, vì tha lực đã có trước khi chúng ta thành chúng sanh, trước khi chúng ta biết đến đau khổ. Trầm mình vào đại dương Bổn nguyện của A Di Đà là hành động của đức tin.
3- Không chỉ để đối phó với khổ đau, đức tin còn là một mong mỏi bất tuyệt về một cõi không có ba đường ác (LN thứ 1) thậm chí không có cả một danh từ để chỉ một sự ác nào (LN thứ 16). Tích cực hơn, đức tin còn là một tình cảm nồng nhiệt đối với tất cả những gì đẹp đẽ, thanh tịnh, cõi nước, con người lành thánh… tất cả những gì của Phật A Di Đà. Chính sự đam mê đối với cõi Tịnh Độ và Phật A Di Đà sẽ chuyển hóa những đam mê vào cõi dục của chúng ta. Những đam mê cõi dục có trách nhiệm lớn với những phiền não khổ đau của chúng ta.
4- Cuối cùng đức tin đó khiến chúng ta mở tâm thức, mở tấm lòng để đón nhận ánh sáng của lòng bi A Di Đà. Chúng ta đều biết các kinh Nikaya thuật lại, khi đức Thích Ca giác ngộ, Ngài nhìn lại thế gian, thấy tất cả chúng sanh như những hoa sen, có cái còn nằm trong bùn, có cái lên trong nước, có cái đã ra khỏi nước và có cái bắt đầu nở hoa, thấy thế, đức Phật đã quyết định chuyển bánh xe pháp để đem lại lợi lạc cho chúng sanh. Với đức tin vào Phật A Di Đà và năng lực đại bi trùm khắp của Ngài, đóa hoa sen - tức Phật tánh - của mỗi chúng ta sẽ vươn lên và nở hoa trong Ánh sáng vô lượng và Đời sống vô lượng.
Đức tin là cái nối kết chúng ta với lời kêu gọi ngập đầy thương yêu và ân điển - tức là 48 lời nguyện của đức A Di Đà - với Ánh sáng vô lượng và Đời sống vô lượng - tức là bản tánh của đức A Di Đà. Nhưng sự kêu gọi và sự đáp trả còn thể hiện ra cụ thể, cây cầu nối kết còn biểu lộ rõ ràng hơn, đó là niệm danh hiệu, “Nam mô A Di Đà Phật”. “Nam mô” là sự đáp trả, sự trở về trong tâm linh của đứa con cơ nhỡ, lạc loài, vô phương tự thoát và “A Di Đà Phật” là quê nhà của nó, sự sống của nó, ánh sáng của nó.
Niệm Phật là thể hiện đức tin ấy. Trong 19 lời nguyện nhắm đến các chúng sanh ở ngoài cõi Tịnh Độ, có đến 14 lời nguyện nói đến “niệm danh hiệu” và “nghe danh hiệu”. Như thế, danh hiệu A Di Đà chính là Phật A Di Đà. Niệm danh hiệu là phương pháp được nói đến nhiều nhất trong những phương pháp để tiếp thông với Phật A Di Đà. Niệm danh hiệu chính là đi về Tịnh Độ và đi vào bản tánh của Phật A Di Đà. Niệm danh hiệu là thể hiện, làm hiện thân Tịnh Độ và bản thân Phật A Di Đà giữa tấm lòng Ta-bà đầy ngũ trược của mỗi chúng ta và cả trong thế giới.
Như trên đã nói, niệm danh hiệu được nhắc đến nhiều nhất trong các đường lối để tiếp cận với Phật A Di Đà và Tịnh Độ. Niệm Phật là để sanh về Tịnh Độ, nơi không có những tranh chấp mâu thuẫn giữa ta - người, ta - thế giới, và ta với chính ta, những mâu thuẫn muôn đời không thể nào giải quyết ở trái đất này, vì như chúng ta vẫn thấy, chiến tranh làm hại nhau đã luôn xảy ra và chắc không có ngày chấm dứt. Hợp nhất với người khác, với thế giới và với chính mình, đó là khổ nạn của cõi này, khổ nạn đem lại tất cả mọi khổ đau của thế giới này, khổ đau đó được giải quyết hoàn toàn ở Tịnh Độ.
Niệm Phật A Di Đà là niệm Ánh sáng vô lượng, do đó phải trừ bóng tối vô minh nơi mình. Niệm Phật A Di Đà là niệm Đời sống vô lượng, do đó phải trừ sanh tử nơi mình. Như vậy niệm danh hiệu là sự tịnh hóa. Sự thải trừ, tịnh hóa đó không chỉ là loại bỏ bóng tối và cái chết, nó còn mở chúng ta ra với Ánh sáng vô lượng và Đời sống vô lượng, nghĩa là mở chúng ta ra với chính Phật tánh của chúng ta, Phật tánh mà tỳ kheo Pháp Tạng đã thành tựu và ứng dụng để tạo thành Tịnh Độ trước đây mười a tăng kỳ kiếp.
Niệm Phật là để dành cho tất cả chúng ta, những chúng sanh ngoài Tịnh Độ. Bắt đầu niệm Phật là bắt đầu sự chuyển hóa. Một câu niệm Phật là một lần chuyển hóa. Sự chuyển hóa này xảy ra tại đây và bây giờ, thải trừ năm độc tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ trong thân tâm để cho chúng ta “nhẹ” người đi, nhẹ nghiệp đi. Khi nghiệp đã nhẹ và với tín tâm mong mỏi trở về Tịnh Độ thì khi phải bỏ xác thân này chúng ta tương ưng với lời nguyện “niệm mười danh hiệu được sanh về Tịnh Độ”, sự sanh về sẽ được thành tựu. Như thế con đường đi về Tịnh Độ bắt đầu ngay lúc này và ngay chỗ này, bằng danh hiệu Phật. Lấy một hình ảnh thí dụ của đại thừa, Phật A Di Đà như một mặt trăng giữa trời, mà mỗi câu niệm Phật như một chậu nước chúng ta mang ra, mang chậu nước nào là có một mặt trăng trong đó. Và cứ thế cho đến khi mặt trăng in hẳn vào dòng hiện sinh của chúng ta, không còn tách lìa dù chúng ta ở đâu và lúc nào. Khi đã thật sự có mặt trăng Phật trong lòng, sự sanh về Tịnh Độ khi chết ắt là một tiến trình dễ hiểu.
Trong Kim Cang thừa, Phật A Di Đà ở về phương tây trong Ngũ Trí Như Lai, là chủ của Liên Hoa Bộ. Nguyên tố của bộ này là lửa và màu của bộ này là màu đỏ. Phật A Di Đà ngồi trên một tòa sen do một con công đội. Con công ăn thức ăn độc và biến thành màu lông rực rỡ của mình, càng độc lông càng đẹp. Cái chuyển hóa chánh của bộ Liên Hoa là tham dục, biến tham dục của cõi dục này thành trí tuệ, biển ái dục của cõi dục này thành từ bi. Bởi thế, khi nào tham dục - một trong năm độc - khởi lên, chúng ta hãy niệm danh hiệu. Khi nào sắp nổi giận, chúng ta hãy niệm Phật, khi nào muốn cầu nguyện cho ai chúng ta hãy niệm Phật, khi nào thấy một đám tang đi qua hãy niệm Phật, cầu cho người đó sanh về Tịnh Độ…
Danh hiệu Phật có tính cách của một thần chú (mantra), một tổng trì (dharani) thỏa mãn cho những nguyện vọng xuất thế gian (“nghe danh hiệu tôi, được vô sanh pháp nhẫn và các môn tổng trì sâu xa”- LN thứ 34) và những nguyện vọng thế gian (“nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung, sanh ra vào những gia đình tôn quý” - LN thứ 43, “nghe danh hiệu tôi, tất cả các căn không xấu xí, bán khuyết”- LN thứ 41). Sở dĩ như vậy vì trong danh hiệu có đủ cả Pháp thân (tâm giác ngộ, tâm Phật), Báo thân (Ánh sáng vô lượng, Thọ mạng vô lượng) và Hóa thân (sắc thân Phật và cõi Tịnh Độ) của Phật A Di Đà. Bởi thế, khi nào trong lòng chúng ta từ bi hỷ xả không sanh khởi, hãy niệm danh hiệu và danh hiệu là sự tập trung thuần khiết nhất của từ bi hỷ xả. Sáu ba la mật, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo phần (sinh A Di Đà) cho đến đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là con đường đại thừa chung cho mọi tông đều có đủ trong danh hiệu Phật, chúng ta cần nhớ rằng, trong danh hiệu, có Chánh báo và Y báo nghĩa là có cả bản tánh trí tuệ và đại bi của đức A Di Đà, đồng thời có Tịnh Độ của Ngài.
Niệm Phật là thả mình vào công cuộc chuyển hóa của Bổn nguyện, trút những xác chết của khổ đau phiền não không thể nguôi ngoai vào đại dương của Bổn nguyện và để cho đại dương đó chuyển hóa cho. Như Phật Thích Ca đã nói “Trong đại dương (Niết Bàn) không dung chứa xác chết”, đại dương Ánh sáng và Đại bi của Phật A Di Đà cũng không chứa những phiền não khổ đau của chúng ta mà sẽ chuyển hóa chúng thành những phẩm tính của Tịnh Độ. Một bài kệ của Thân Loan (1173- 1263), vị tổ thứ hai Tịnh Độ tông Nhật Bản:
Khi nhiều dòng sông phiền não chảy vào
Đại dương của lời nguyện Đại bi
Của Ánh sáng vô ngại, soi sáng mười phương
Chúng trở thành một vị với nước của Trí tuệ.
Và như thế, không chỉ khổ đau phiền não của chúng ta mà toàn bộ hiện sinh của chúng ta được đặt trên nền tảng ban sơ và tối hậu của sự chuyển hóa: cuộc đời bấp bênh dễ vỡ như bọt biển của chúng ta (bọt trong biển cả uổng chìm nổi - Tuệ Trung Thượng sĩ) được an trụ vào cái an toàn tối hậu, đại dương Bổn nguyện của A Di Đà; tâm thức chúng ta tiếp thông với Ánh sáng vô lượng, cuộc đời hữu hạn nhỏ nhoi của chúng ta tìm ra nền tảng của chính nó là Đời sống vô lượng, sức sống của chúng ta cắm rễ vào lòng bi không cùng…
Lúc ấy, thế giới này không còn là khổ đau sanh tử mà tất cả đều đã được chuyển hóa để trở thành sự biểu hiện của Phật A Di Đà như cõi Tịnh Độ (giai thị A Di Đà Phật dục linh tuyên lưu pháp âm biến hóa sở tác- linh A Di Đà ). Lúc đó, tất cả chỉ còn là tha lực của A Di Đà, như Sa Chi (1850- 1933) nói:
Trong Tha lực
Không có tự lực
Không có tha lực.
Tất cả là Tha lực.
Lúc đó là hợp nhất bất khả phân, ánh sáng hòa trong ánh sáng, hương thơm hòa trong hương thơm, như Sa Chi nói:
Lòng tôi là lòng Ngài
Lòng Ngài là lòng tôi
Chính lòng Ngài trở thành tôi;
Không phải tôi trở thành A Di Đà
Mà A Di Đà trở thành tôi
-Nam Mô A Di Đà Phật.
Trong Ánh sáng vô lượng có sự chuyển hóa hoàn toàn, tất cả đều trở thành ánh sáng. Vẫn Sa Chi nói:
84.000 phiền não
84.000 ánh sáng
84.000 niềm vui tràn ngập.
Ở trên chúng ta đã trích vài lời phát biểu của các thành tựu giả niệm Phật, là những tấm gương cho chúng ta. Những lời ấy cho chúng ta thấy rằng chính đức tin chân thành sâu sắc rằng tất cả chúng ta đang sống trong Bổn nguyện, Vô lượng quang và Vô lượng thọ của Phật A Di Đà. Sống trong đức tin như vậy tạo thành giới định tuệ cho một cuộc đời của một Phật tử Tịnh Độ. Chỉ nói một mặt và sơ lược về một vài điều giới của một Phật tử Tịnh Độ, đó là không tranh chấp, không oán thù, từ bi hỷ xả, không gieo thêm khổ đau cho mình và cho người khác, dù người ta có nói xấu, làm ác với mình, mình không có quyền đáp trả lại, tâm “không có ba đường ác, thậm chí không có cả danh từ đường ác” (câu kinh A Di Đà diễn tả Tịnh Độ). Một tâm không có sự xấu ác như vậy, thì tâm đó đã phần nào thanh tịnh, và nhờ đó cảm nhận được sự thanh tịnh đẹp đẽ của cõi Tịnh Độ; tâm đó đã có tịnh nghiệp của cõi Tịnh Độ cho nên tâm đó đã tiếp thông, đã có phần của Tịnh Độ. Như thế, cuộc đời đó được thăng hoa, gần với sự an ổn của Bổn nguyện hơn, gần với Ánh sáng vô lượng, Đời sống vô lượng hơn.
Trong thời đại hiện nay, tính chất tâm linh nơi con người đã yếu nhạt nhiều, hoàn cảnh bên ngoài dễ dàng cho con người sa vào tội ác, đến nỗi chúng ta thấy danh từ mạt pháp không phải là huyền thoại. Nhưng cũng chính trong một thời khó khăn cho tâm linh như vậy, Bổn nguyện của Phật A Di Đà lại càng có ý nghĩa hơn, khi Bổn nguyện đó đã có trước cả sự sinh thành của thế giới chúng sanh và sẽ còn mãi với đức Vô lượng thọ. Như thế Bổn nguyện của Phật A Di Đà đã có trước thời mạt pháp và vượt khỏi thời mạt pháp, bất chấp thời mạt pháp và sẽ đưa chúng ta vượt qua thời mạt pháp bằng tính chất kiên cố vĩnh cửu, Vô lượng thọ của nó. Có lẽ rằng trong thời yếu kém tâm linh này, chúng ta không có cách gì tiếp cận, không có cách gì vươn lên một đời sống cao thượng hơn, sáng sủa hơn, đầy tin yêu hơn, hòa hợp hơn và với phương tiện nào dễ dàng hơn câu niệm Phật.
Những lời nguyện của đức A Di Đà nhằm vào tất cả chúng ta, mọi mặt của cuộc đời chúng ta. Cho đến với thân phận của người nữ “ở khắp mười phương nghe danh hiệu tôi, vui mừng tin mến, phát Bồ-đề tâm, chán ghét làm thân phụ nữ, như vậy nếu về sau có sanh ra nữa thì khỏi mang thân phụ nữ” (L N thứ 35). Và không phải nhằm vào chúng ta một cách chung chung, mà vào chính mỗi một chúng ta, với bao nhiêu giới hạn, bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu lỡ lầm, thất bại, bất kể cấp độ tiến hóa, một chúng sanh với tất cả tài sản sanh tử của nó. Như ngài Thân Loan nói: “Khi tôi suy nghĩ về lời nguyện từ bi của A Di Đà, được thiết lập qua năm a tăng kỳ kiếp tâm niệm sâu xa, lời nguyện đó là dành cho chính tôi, Thân Loan, cho chính một mình tôi.”
Khi đức tin đã phát khởi, chúng ta có sự tương thông với Phật A Di Đà và sự tương thông đó trở nên liên tục, tương tục và luôn luôn mở rộng cả bề sâu lẫn bề rộng bằng niệm danh hiệu Phật. Sự chuyển hóa liên tục xảy ra từ mối nối kết này, biến đổi con người tội lỗi, bất toàn, tự mâu thuẫn xung đột và phải chết của chúnh ta thành một con người của Tịnh Độ. Sự chuyển hóa này ngày xưa các tổ Tịnh Độ ví như “gạch ngói vụn được biến thành vàng ròng” vì “Trong Tịnh Độ, tất cả trời người sắc tướng đều một màu vàng ròng” (LN thứ 3). Chúng ta cần nhắc lại một lần nữa, sự chuyển hóa không chỉ xảy ra ở nơi cõi Tịnh Độ mà đã và đang xảy ra ngay tại đây và lúc này. Sự chuyển hóa “gạch ngói vụn thành vàng ròng này”, “sắc tướng con người đồng thành một màu vàng ròng” phải được thiết lập ở đây và lúc này, nghĩa là kinh nghiệm về Tịnh Độ và Phật A Di Đà phải được cảm nhận nơi mình ở đây và lúc này.
Để minh họa cho đời sống của đức tin hiện sinh này, chúng ta đọc một vài mẫu chuyện của Shoma (1799- 1871) trích từ The Essence of Buddhism của DT. Suzuki:
Có lần Shoma viếng một ngôi chùa quê. Vừa vào chánh điện anh thỏng chân nằm dài trước tượng A Di Đà. Một người trách anh thất kính, anh trả lời:
“Tôi vào đây là trở về nhà cha mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là người ngoài gia đình này thôi”.
Sống trong lòng đại bi Bổn nguyện của Phật A Di Đà là như vậy.
Có lần Shoma cùng các bạn đi trên một chiếc thuyền buồm, gặp lúc gió lớn sóng to như muốn nhận chìm thuyền. Mọi người quên hết việc niệm Phật mà chỉ biết van vái lung tung. Trong khi ấy Shoma nằm ngủ cho đến lúc người ta đập anh dậy, anh dụi mắt hỏi:
“Tôi có còn trong thế giới Ta-bà không?”
Có lần anh làm việc ngoài đồng, mệt bèn về nhà nghỉ. Gió mát khiến anh nhớ đến Phật A Di Đà. Anh bèn mang tượng ra đặt bên cạnh nói: “Ngài ngồi đây hóng mát nhé!”
Một hôm giữa đường mắc bệnh, bạn bè mướn người võng anh về nhà, rồi dặn dò: “Nay anh đã về quê rồi, hãy nghỉ yên và tạ ơn A Di Đà.” Shoma đáp: “Cám ơn, nhưng tôi bệnh ở đâu thì chỗ đó là Tịnh Độ của tôi, sát ngay bên cạnh tôi”.
Có lần nghe người nói về hoạt động truyền giáo của một tôn giáo khác, Shoma nói: “Không gì tốt hơn là phàm phu thành Phật”. Khi có người hỏi làm sao giữ tròn được cuộc sống sau khi chết, Shoma đáp: “Việc ấy để A Di Đà lo liệu, đó không phải là chuyện của tôi.”
Chúng ta thấy một con người, bằng đức tin và danh hiệu, đã gắn được cuộc đời mình với Bổn nguyện của A Di Đà, và như thế, dù thân còn ở đây chưa về đến Tịnh Độ nhưng tâm đã có phần dự vào trong Tịnh Độ, trong Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của Phật A Di Đà để xóa tan khoảng cách giữa Ta-bà và Tịnh Độ, giữa Sanh tử và Niết Bàn.
Có thể tóm lại, sống trong Bổn nguyện là giao phó, đưa hết thãy thân tâm tùy thuận với công việc đại bi bao la vô tận của Phật A Di Đà, một thân tâm quy y vào Phật A Di Đà, như vậy thì thanh tịnh để có thể phát khởi đức tin trông cậy vào A Di Đà và công việc của Ngài. Thân tâm hữu hạn và khuyết điểm đó chìm ngập trong thực tại của A Di Đà là trí tuệ và đại bi phổ trong 48 lời nguyện, đây là tiền đề để sanh về Tịnh Độ. Nhưng trước khi thân tâm đi về trung tâm điểm đích đến của nó là Tịnh Độ, thì ngay ở đây và lúc này, nơi thế giới này chúng ta đã hưởng được những phần công đức của Tịnh Độ.
Những Phật tử Tịnh Độ không tu theo nhân thừa (Hetuyana tức là Thừa sáu ba la mật (Paranitayana) tạo nhân để tự mình đạt đến quả Phật) mà tu theo quả thừa (Phalayana, quả của Phật A Di Đà đã thành tựu cách đây mười a tăng kỳ kiếp). Chúng ta không tu trên Nhân quả của chúng ta mà tu trên Quả đã thành tựu của Phật A Di Đà. Do vậy, từ điểm bắt đầu cho đến điểm kết thúc đều nằm trong Quả Phật của đức A Di Đà, tức là nằm trong Bổn nguyện đã thành tựu của Phật A Di Đà: Như thế khởi điểm đầu tiên và đích đến cuối cùng đều nằm trong “Nam mô A Di Đà Phật”.
Nguyễn Thế Đăng