Khả năng tiềm tàng kỳ diệu chói sáng rực rỡ của mỗi chúng sanh, nay đã được Đức Phật, người đầu tiên trong lịch sử loài người, chứng minh và chỉ rõ. Đó là Phật tánh, là khả năng thành Phật hay nói đúng hơn là sự trở về với nguồn tâm tuệ giác, là sự nhận diện về “Bản lai diện mục” của chính mình.

Phải chăng trong quá trình tu chứng của Đức Phật, Đức Phật lịch sử của nhân loaị đã nói lên lòng tự tín rằng con người có một kho tàng vô tận tiềm ẩn; đó là khả năng nhận chân được sự vật (dharma), khả năng thẩm thấu nguyên nhân sinh diệt của các pháp để từ đó vượt qua được tất cả thú vui vật chất tạm bợ của cuộc đời. Cái mà dính vào nó thì vui ít khổ nhiều. Chính vì vậy mà Bồ-tát Tất-đạt-đa ngày đêm nỗ lực không hề chán nản với mục đích vì lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh.

Suốt trong sáu năm khổ hạnh Ngài đã cho con người bài học về sự nhẫn nại, sự nỗ lực và tình thương của Ngài đôí với chúng sanh. Và khi từ bỏ hai cực đoan là lợi dưỡng và khổ hạnh, mà Ngài cho rằng không thích hợp và không mang lại lợi ích cho người tịnh hạnh. Ở đây nói lên sự sáng suốt của Ngài, có một sự quán sát tinh tường của Ngài. Vì vậy Ngài vẫn chấp nhận tất cả những gì thử thách đối với Ngài. Và Ngài ngày đêm nỗ lực và nỗ lực... Thật cảm động biết bao!

Và quả thật Ngài đã chứng minh được tiềm năng vĩ đại của con người. Ôi! trong lúc sao mai vừa mọc, và chắc chắn trời đất chuyển rung, nhạc trời trổi dậy, muôn hoa bừng nở đón mừng một vị Phật ra đời cứu độ tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong biển mê.

Ngài đã dựng đứng lại những gì bị quăng bỏ, bị quên lãng. Đó là khả năng tiềm tàng trong mỗi chúng sanh cái có thể gọi là ”Phật tánh” hay khả năng trí giác thẩm thấu thật tánh của các pháp. Và chính vì lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh mà Ngài không dấu diếm điều gì trong sự kinh nghiệm tu tập của mình, sự thấy biết chân thật về các pháp của nhân sinh vũ trụ. Ngài mạnh dạn tuyên bố: “nguồn gốc thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng nầy, cùng với tri giác và tư tưởng.”[1] Nghĩa là thế gian vốn là đau khổ. Do đó, chấm dứt hay tiêu diệt thế gian là chấm dứt khổ não tức là Niết-bàn vậy.

Rõ ràng Ngài đã xác chứng Niết-bàn có được trong kiếp sống nầy, trong cộc đời nầy, hạnh phúc chân thực ngay trong hiện tại nầy nếu con người thật sự muốn đạt được nó, với sự nỗ lực ngày đêm, và lấy Giới- Đinh -Tuệ làm nền tảng hay lấy Bát Chánh Đạo để diệt trừ tham sân si, đoạn tận ái dục, đi trên con đường Trung Đạo và hẳn nhiên vị ấy với lòng từ bi vô lượng trong chí ngyện cao cả đối với tất cả chúng sanh một cách bình đẳng.

Có thể nói Đức Phật là tấm gương chói sáng về sự nỗ lực của chính mình dành cho nhân loại và đặc biệt là cho những ai muốn đi trên con đường an ổn nhất, và thật có được hạnh phúc như mình mong muốn, chắc chắn nó không phải nhờ ở sự van xin cầu lụy ở người nào khác hơn ở sự tinh tấn nỗ lực của chính mình. Đức Phật luôn luôn nhắc nhở con người rằng: Hãy tự xem mình là hải đảo của chính mình. Hãy tự xem mình là nơi nương tựa của chính mình, không nên tìm nương tựa nơi ai khác.[2] Và Ngài luôn thiết tha căn dặn rằng: các ngươi hãy tự mình nỗ lực. Đấng Như Lai chỉ là Bậc Đạo Sư.[3]

Thật vậy cố gắng cá nhân là yếu tố cuối cùng để thành tựu mục tiêu. Sự thành tựu đạo quả giác ngộ vĩ đại của Đức Phật đã làm cho nhân loại bừng tỉnh sau đêm dài mộng mị, bỏ đi sự tự ti mặc cảm của chính mình và có thể nói đầy tự hào về sự có mặt của mình trong kiếp người với nhiều thuận duyên trong cuộc đời nầy. Nhất là được gặp Phật Pháp, được học hỏi về bài học “làm người” từ bậc vĩ nhân để lại. Ngôi nhà chánh pháp của Người không có một sự phân chia, kỳ thị về chủng tộc, màu da, về giai cấp cao thấp, giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, già trẻ. Ngài đối với tất cả chúng sanh bằng một tình thương bình đẳng, Ngài muốn tất cả chúng sanh đều được sống trong tình thương vô bờ ấy và chỉ cho phương pháp để tự mình có thể vượt thoát khỏi mọi khổ đau và đến được mục tiêu tối thượng. Ngài dạy: “khi tự mình làm điều tội lỗi thì tự mình làm ô nhiễm; khi ta tránh điều tội lỗi thì lúc đó chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay nhiễm ô là tự nơi ta, không có ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch.” (Kinh Pháp Cú).[4]

Thật vậy, giáo pháp của Ngài rực rỡ, chói sáng vì nó hoàn toàn vượt ra tất cả sự nô lệ về tinh thần, hoàn toàn chỉ có tự do lựa chọn và quyết định đời mình theo ý chí mình. Với Ngài đẳng cấp cao thấp, sang hèn là do hành động của mỗi người, mỗi chúng sanh chịu trách nhiệm về hành động của chính mình chứ không có giai cấp nào làm nên được. Trong kinh Tăng Chi (Anguttara Nikaya), đại ý của lời Ngài khuyên bảo dân Kalama rất cảm động, sâu sắc và rất trí tuệ. Ngài khuyên không làm nô lệ dưới bất cứ hình thức nào, tất cả bằng sự quan sát, nhận xét của mình những gì nên làm, nên theo, những gì không nên làm, không nên theo và có lợi ích an vui cho mình, cho người hay không. Chứ không thể nào mù quáng tin theo vì bất cứ lý do nào khác.

Do vậy, trong sự thành lập giáo hội Tăng lữ của đức Phật, có lẽ không ai mà không thấy được sự khoan dung độ lượng của Ngài; Ngài tiếp nhận tất cả tầng lớp trong xã hội, trên từ bậc vua quan và thứ dân cùng đinh hạ tiện, cả tên cướp sát nhân như Angulimala cho đến hạng gái giang hồ như Ambapali cũng được Ngài cứu độ và dạy cho cách tự làm trong sạch chính mình, an lạc chính mình bằng chánh đạo.

Và đặc biệt, ở đây, có thể nói lòng từ bi của Đức Phật ưu tiên nâng đỡ cho hàng nữ giới, bởi Ngài nhận thấy nữ giới tay yếu, chân mềm . . . luôn cần được nhiều sự hỗ trợ. Đây là điều diễm phúc và đáng vui mừng nhất cho giới nữ, vì cũng như người nam, người nữ có khả năng chứng ngộ chân lý một cách bình đẳng.

Đây là niềm khích lệ lớn, niềm tự hào lớn không dành cho bất cứ ai mà đây chính là tiềm năng vĩ đại của con người được chính con người phát hiện. Quả đúng thật như vậy, không ai có thể phủ nhận về sự chứng ngộ chân lý của Đức Phật lịch sử của nhân loại, đấng Sakyamuni. Chính sự chứng ngộ lịch sử đó là niềm tự hào lớn cho nhân loại và cho tất cả chúng sanh. Chỉ có hành động tạo tác sai khác của chính mình và sự nắm bắt sai lạc của chính mình để rồi đắm chìm trong biển mê, rồi quên cả lối về, không nhận ra mình là ai, như chàng cùng tử với hạt châu trong chéo áo mà phải lang thang dong ruỗi ngược xuôi !

Phải chăng cái khả năng tiềm tàng kỳ diệu chói sáng rực rỡ của mỗi chúng sanh nay đã được Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử loài người, chứng minh và chỉ rõ. Đó là Phật tánh, là khả năng thành Phật hay nói đúng hơn là sự trở về với nguồn tâm tuệ giác, là sự nhận diện về “Bản lai diện mục” của chính mình.

Do vậy mà Ngài hoàn toàn thoát ra khỏi bất cứ hình thức chấp thủ nào, Ngài thong dong tự tại trong thể tánh thường tịch chiếu. Đó là những gì mà Đức Phật nói về tiềm năng con người. Đây cũng chính là điều khiến cho nhân loại nghĩ về chính mình trong thế kỷ 21 nầy, để lợi ích lớn cho mình, người và chúng sanh.

Thích Nữ Đồng Anh



[1] S. I. 62.

[2] D. II. 100.

[3] Kinh Pháp Cú, kệ 276.

[4] Kinh Pháp Cú, kệ 165.



Có phản hồi đến “Đức Phật Nói Gì Về Tiềm Năng Con Người”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com