Đời Trần, Trần Nhân Tông (1258-1308), một nhà vua đi tu đắc đạo, trở thành vị Thiền sư sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm.

Khi còn làm vua, Trần Nhân Tông đã viết bài Thơ Cảnh Xuân:

"Liểu rủ hoa hồng chim hát ca

Mây chiều in bóng trước hiên nhà

Khách vào, thế sự không cần hỏi

Chỉ tựa lan can ngắm cỏ hoa".

(Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì

Họa đường thiền ảnh mộ vân phi

Khách lai bất vấn nhân gian sự

Chỉ bạng lan can khán thúy vi)

Lời thơ cho chúng ta thấy dấu ấn "Gia phong của chư Phật" tiềm ẩn trong bài "Cảnh Xuân" rất đậm nét, và chính dấu ấn này đã khơi lại mạch đạo "tầm tứ" làm tiền đề nối nhịp cho nhà vua Trần Nhân Tông hội nhập Phật cảnh chân tâm.

Sau khi đi tu trở thành một vị Thiền sư, Trần Nhân Tông tiếp tục soi sáng:

"Thân như hơi thở qua buồng phổi

Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa

Chim khuyên kêu rã bao ngày tháng

Đâu phải mùa Xuân dễ luống qua?"

(Thân hư hô hấp tỵ trung khí

Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân

Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú

Bất nhị tầm thường không quá Xuân).

Đây chính là một thắi độ tỉnh giác trước vô thường, biết quý trọng và làm chủ tâm thức mình trước sự chuyển dịch của thời gian.

Câu chuyện đối đáp truyền trao ý pháp của Thiền sư với các học nhơn sau đây cho chúng ta thấy rõ hơn. Một hôm có một Thiền sinh đến tham vấn:

-- Bạch Hòa Thượng, gia phong của Đức Phật quá khứ thì thế nào?

Thiền sư đáp:

"Vườn rừng vắng mặt người chăm sóc

Lý trắng đào hồng tự nở hoa".

Hễ còn phàm phu thì trú trong vòng tương đối -- có đến có đi, có thị có phi, có hôm qua, có ngày nay. Lý đào dù ở trong rừng vắng, dù không người chăm sóc, nhưng đến thời tiết nhơn duyên hoa tự nở. Cũng vậy, một khi đạt đến đỉnh cao của tâm thức, an trú trong đạo quả rồi thì dù ở đâu, đi đâu, động hay tịnh, hôm qua hay ngày nay -- Phật pháp muôn đời vẫn là Phật pháp ; Đức Phật Di Đà mãi mãi vẫn là Đức Phật Di Đà.

Thiền sinh lại hỏi tiếp:

-- Gia phong của các Đức Phật hiện tại thì thế nào ?

Thiền sư đáp:

"Nhạn sớm lạc trên hồ nước bạc

Gió Xuân say giữa khóm đào hồng".

Tinh thần "Ngã bất nhập địa ngục, thùy nhập địa ngục" hay tư tưởng "Phật pháp bất ly thế gian giác" đã được Thiền sư thi vị hóa một cách sinh động tuyệt vời. Phật pháp thường khi không hề bị ngăn ngại, mà trái lại còn chủ động hội nhập một cách năng động để tiếp chúng độ sanh. "Lạc" hay "say" đây chính là triển khai tính "cơ, lý", là truyền thống, nề nếp của ba đời chư Phật mà Đức Phật Thích Ca là một hiện thân.

Thiền sinh lại hỏi tiếp:

-- Còn gia phong của Đức Phật vị lai ?

Thiền sư đáp:

"Bãi biển đợi triều, mây nhớ nguyệt

Thôn chài nghe sáo, khách trông nhà".

Những động từ: đợi, nhớ, nghe, trông... là những ngôn ngữ kết nối sự quay về hội nhập giữa các chủ thể - sắc: bãi biển, thôn chài, áng mây, ngôi nhà... với các khách thể - trần: nước triều, ánh trăng. tiếng sáo và khách lữ hành. Bãi biển sẽ đẹp, sống động khi có nước triều lên; thôn chài sẽ mơ màng thơ mộng biết bao khi có tiếng sáo nhẹ vang; áng mây trời càng thêm lung linh khi có ánh trăng rằm ẩn chiếu và ngôi nhà trở nên ấm áp khi người khách (chủ) lữ hành đã trở về. Vì thế, chúng ta dễ dàng nhận ra nơi Đức Phật Di Lặc là một hiện tượng của ý Pháp"... luôn luôn du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người".

Thiền sinh lại hỏi:

-- Còn gia phong của Hòa Thượng thì sao ?

Thiền sư đáp:

"Áo rách đùm mây đun cháo sớm

Bình xưa đựng nguyệt nấu trà khuya".

Ôi! Lời thơ uyên áo, thiền vị, một ý nghĩa đẹp tuyệt vời làm sao! Hình ảnh một vị đạo sư nương chiếc thân tứ đại giả hợp, vui sống đời sống thiểu dục tri túc (áo rách đùm mây) để hằng ngày tinh tấn hành trì đạo nghiệp (đun cháo sớm) trưỡng dưỡng tâm chơn. Và cũng chính nơi xác thân xa xưa cũ kỹ này (bình xưa đựng nguyệt) mà con người luôn biết gìn giữ một tâm thức trí tuệ trong sáng như ánh trăng hiền diệu để mỗi ngày (nấu trà khuya) tích lũy tư lương.

Đến đây, học nhơn lại hỏi:

-- Ngày xưa, khi Linh Vân thấy hoa đào nở mà chứng ngộ thì thế nào ?

Thiền sư đáp:

"Hoa tàn, hoa nở theo thời tiết

Đông quân bị hỏi cũng không lời".

Ngày xưa, Thiền sư núi Linh Vân, mùa Xuân đến, thấy hoa đào nở mà chứng ngộ Phật pháp tức là sự tương ứng tâm cảnh của người đắc nhập. Nay ta chưa đủ năng lực thời duyên thì dù có nhìn ngàn cánh hoa nở, họa chăng cũng chỉ biết vui đón mừng Xuân. Vì thế dù có hỏi các vị Đông quân (ý chỉ mặt trời hay mùa Xuân) thì cũng không có ai đáp lời.

II.

Thân phận con người là một hệ quả tất yếu trong đời sống hiện hữu.

Giác ngộ làm chủ cuộc sống của chính mình, của một đời người không phải là điều dễ làm. Từ khi mới lọt lòng Mẹ cho đến khi trưởng thành, già yếu và mất đi... mỗi đời người chúng ta trải qua không biết bao nỗi thăng trầm, khổ vui, được mất. Thiền sư Trần Nhân Tông thương tưởng chúng sanh, thể hiện lòng đại từ đại bi vạch lối chỉ đường:

"Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc - không

Xuân sang hoa bướm rộn tơ lòng

Chúa Xuân nay đã từng quen mặt

Thiền tọa ngồi yên, ngắm rụng hồng".

(Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không

Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung

Như kim khám phá Đông Hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng).

Nếu mỗi người chúng ta không tỉnh giác, tự mình không dừng chân thì cuộc luân hồi dài khó nổi thoát ra.

Đến cuối đời, Thiền sư Trần Nhân Tông vẫn không quên để lại một bài thơ -- vừa cảnh tỉnh, nhắc nhở môn sinh hậu bối mà cũng để khẳng định giềng mối gia phong của chư Phật:

"Số đời một hơi thở

Tình đời hai biển trăng

Cung ma đâu xá kể

Nước Phật một trời Xuân".

(Thế số nhất tức mặc

Thời tình lưỡng hải ngân

Ma cung hồn quản thậm

Phật quốc bất thắng Xuân)

Ôi! Gia phong của chư Phật -- một mùa Xuân miên viễn trong lòng.

HT Thích Giác Toàn



Có phản hồi đến “Gia Phong Chư Phật Và Mùa Xuân”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com